Xem để biết về cá của mình
Bài viết này có 3 mục đích:
Thứ nhất - giới thiệu về cá Xiêm và xem xét chúng dưới khía cạnh cá đá, đồng thời giải thích làm thế nào để người huấn luyện và con cá có thể hợp lực cho một mục đích duy nhất đó là biến một con cá Betta splendens bình thường thành một đấu sĩ thực thụ. Bài viết sẽ hướng dẫn từng bước cách chọn một cá đá tốt và huấn luyện nó thành cá đá tuyển.
Thứ hai - là sổ tay hướng dẫn cho những người mới bắt đầu tham gia trò đá cá. Mục đích là giúp họ biết cách chơi và tránh phạm phải những lỗi thông thường chẳng hạn như trở thành nạn nhân của những trò lừa đảo trong trường đấu.
Thứ ba - chứng minh rằng đá cá thực sự là một trò chơi. Cá đá là kết quả của việc lai tuyển chọn và huấn luyện một cách kỹ càng mà một vài bước nuôi dưỡng và huấn luyện trong đó rất tương đồng với các môn thể thao như bóng đá, đấm box, quần vợt, cầu lông hay bất kỳ các môn thể thao nào khác. Những đấu thủ tham gia thi đấu hoàn toàn phải qua huấn luyện và ở tình trạng thể lực tốt nhất. Hy vọng bài viết này sẽ chứng tỏ cho mọi người thấy rằng cá đá là loại Betta splendens đặc biệt và độc đáo, và không phải loại Betta splendens nào cũng có thể đem đi đá.
Phong trào đá cá bắt nguồn và phát triển ở Thái Lan từ rất lâu. Cá được thuần hóa từ triều đại Sukhothai cách nay khoảng 700 năm. Các văn bản vào thời trị vì của vị vua Lithai thuộc triều đại trên có đề cập đến việc đá cá bên lề các hoạt động thể thao.
Hình vẽ mô tả về một trận đá cá từ quyển sách "Ấn tượng về Thái Lan ở thế kỷ 20" bởi một người phương Tây vào năm 1908.
Hình vẽ mô tả nhóm người tụ tập vì một hoạt động mà cả trăm năm sau người ta cũng dễ dàng đoán ra. Dù bắt đầu từ lúc nào thì phong trào đá cá cũng lan rộng khắp Đông Nam Á và trên toàn thế giới, gồm cả châu Úc, Bắc Mỹ và châu Âu.
Giá trị của trò đá cá
Người ngoài cuộc có thể không hiểu được vì sao người ta lại thích thú với trò đá cá nhưng khi quan sát kỹ lưỡng hoạt động của những người tham gia một cách khách quan và không thành kiến, chúng ta có thể thấy một vài điểm thú vị và hiểu biết tốt hơn về giá trị của nó.
Đá cá phải được thực hiện một cách khoa học và khéo léo. Người chơi phải hiểu rõ và áp dụng các kiến thức về sinh học trong việc nuôi và huấn luyện cá đá. Ngoài ra, người chơi phải sáng tạo và thao tác khéo léo hơn so với đối thủ để chiếm ưu thế trong cuộc đấu. Trong quá trình huấn luyện và trước khi mang cá ra trường đấu, người chơi phải kiểm tra từng đặc điểm của cá một cách chi tiết bao gồm hình dạng, miệng, vảy, da cùng với dáng bơi và kỹ năng đá.
Đá cá là một dạng hoạt động tinh thần đối với người tham gia. Nó cũng là một trò chơi mang lại nhiều cảm xúc, cả niềm vui lẫn nỗi buồn. Dù thắng hay bại thì việc quan sát trận đấu cũng đem lại cho người chơi sự thăng bằng về tinh thần. Họ nói, cười, đùa cợt và chia xẻ quan điểm về cách thức chiến đấu của cá và điều này giúp giảm bớt sự thất vọng khi cá của họ bị thua trận.
Đá cá đòi hỏi sự điềm tĩnh bởi có rất nhiều thách thức và khích bác trong cuộc chơi. Một số người còn nói xấu hay chỉ trích người thắng cuộc. Vì vậy mới có câu "không có ai thực sự là bạn hay thù trong trường đấu". Người tham gia phải biết kiềm chế cảm xúc và suy nghĩ của mình, hãy tự tin vào chính mình, nhất định không để bị lôi kéo vào bất kỳ trò gian lận nào của đối thủ. Một khi bạn tham gia vào trường đá cá thì chính bạn cũng tham gia vào cuộc đấu như cá của bạn vậy.
Đá cá đem lại các mối quan hệ xã hội. Trường đấu là nơi tụ hội mọi người thuộc mọi tầng lớp xã hội, tuổi tác và nghề nghiệp. Mọi người đến để chia xẻ ý kiến, ăn uống và giải trí. Chấp nhận luật chơi và tôn trọng các tập tục truyền thống là điều bắt buộc ở đấy.
Con cá đá phải là hình ảnh tượng trưng cho người có lòng tự trọng và trong sáng - tức là phải thi đấu tận tâm một cách vô điều kiện. Cá không được bỏ chạy ngay cả khi đối thủ của nó lớn hơn rất nhiều. Nó phải chiến đấu cho đến khi không còn sức lực nữa mới thôi. Nó có trách nhiệm phải chiến đấu bằng mọi khả năng có thể mà không viện dẫn đến bất kỳ lý do nào để từ chối, điều mà tiếc thay chúng ta lại ít thấy nơi con người. Một số người thường lẩn tránh hay cân nhắc thiệt hơn khi thực hiện trách nhiệm của mình. Vì vậy, hình ảnh về con cá đá nhắc nhở chúng ta phải biết chịu đựng và kiên nhẫn trong cuộc sống khó nhọc hàng ngày.
Những điều cần cân nhắc khi tham gia đá cá
Sau đây là những điều cơ bản mà chúng ta cần phải cân nhắc được rút tỉa từ kinh nghiệm đá cá nhiều năm trời của tôi. Tôi đã tốn rất nhiều thời gian và công sức kể cả tiền bạc để thử nghiệm và thực hành, nay xin được chia xẻ cùng mọi người:
Đừng đem con cá bị bệnh đi đá. Người chủ phải kiểm tra cá của mình thật cẩn thận. Một con cá bệnh đôi khi không biểu hiện ra bên ngoài. Chúng ta phải kiểm tra kỹ lưỡng xem trên mình cá có các chấm nhỏ li ti hay là lớp màng mỏng bám trên miệng và mặt của cá hay không. Một số người nuôi cá chuyên nghiệp có thể quan sát dáng bơi của cá để phát hiện nó có bệnh hay không. Không có con cá bị bệnh nào lại có thể hy vọng thắng cuộc trong trường đấu.
Đừng đem con cá bị tật hay không hoàn thiện đi đá. Người nuôi phải kiểm tra độ hoàn thiện của cá một cách cẩn thận. Sự hoàn thiện ở đây đối với cá đá có hai ý nghĩa. Thứ nhất là về hình dạng, thứ hai là về trạng thái tâm lý. Độ hoàn thiện về hình dạng có nghĩa tất cả các bộ phận như kỳ, mắt phải ở trạng thái bình thường, miệng và nắp mang phải khép kín hoàn toàn, vảy không bị biến dạng... Theo kinh nghiệm của tôi, một khi cá của bạn biết rõ điểm yếu của cá đối thủ, nó sẽ liên tục tấn công vào đó. Tôi từng thắng một trận nhờ nhận ra một cái vảy bị biến dạng trên mình cá của đối thủ và khai thác điều đó một cách tối đa.
Đừng đem con cá mà bạn chưa từng chứng kiến nó đá như thế nào đi đá các độ lớn. Mặc dù nhà cung cấp tin cẩn có cam đoan rằng con cá mà họ đưa cho bạn có chất lượng hàng đầu thì người đá cá cẩn trọng cũng phải bắt một con trong lứa cá cho đá thử với một con cá khác có chất lượng tương đương. Một số cao thủ thậm chí còn cho cá của mình đá thử với con cá có kích thước lớn hơn (tỷ lệ khoảng 5/4) để biết được tiềm năng và hạn chế của lứa cá đó. Người ta cũng không thể chỉ cho cá đá khoảng 10 phút mà đoán được cách đá - một khi đã thử, phải để cho cá đá đến cùng.
Đừng đem con cá đi đá nếu bạn chỉ dựa vào cơ hội và sự may rủi. Theo kinh nghiệm của tôi, chúng chỉ đến với người đá cá cẩn trọng, người có đủ nhạy bén để nắm bắt cơ hội và chấp nhận rủi ro. Nên nhớ rằng cơ hội không đến từ con cá mà từ người chơi. Người chơi phải luôn luôn tuân thủ luật lệ. Cố gắng vận dụng luật lệ một cách tốt nhất để chiếm lợi thế trong cuộc chơi. Có rất nhiều trường hợp người yếu thế hơn có thể chuyển bại thành thắng đơn giản chỉ vì họ thấy được cơ hội và tận dụng nó. Tuy vậy, sự may mắn thường đến một cách bất ngờ không mong đợi và làm thay đổi kết quả trận đấu.
Đừng đặt quá nhiều sự tin tưởng vào cá của bạn. Tin tưởng cá của mình quá mức sẽ làm cho bạn bị mù quáng và càng sa lầy vào cuộc chơi. Ban đầu cá của bạn có thể đá thật tốt nhưng những đối thủ về sau có thể sẽ làm cho bạn phải trả giá nếu bạn quá tự tin. Trong hầu hết các trường hợp, nhà đá cá chuyên nghiệp sẽ cất con cá từng thắng trận của mình đi.
Đừng đánh giá thấp đối thủ. Bí quyết này được truyền từ người này sang người khác. Khi cân nhắc đối thủ, nhiều người đá cá chỉ cân nhắc đến người chủ cá mà bỏ qua không cân nhắc đến con cá. Đôi khi bạn thậm chí chấp nhận đá với con cá lớn hơn đơn giản chỉ vì nghĩ rằng người chủ của nó không thể huấn luyện cá thành thạo như mình. Bạn có thể chưa biết rằng có nhiều cao thủ để cho người khác đứng tên con cá của họ. Người đó cũng có thể không biết huấn luyện cá nhưng hoàn toàn có thể mua một con cá đã được huấn luyện sẵn để đá với bạn. Vì vậy, chúng ta nên cân nhắc đến con cá đối thủ hơn là người chủ cá. Có nhiều cao thủ quá nổi tiếng nên rất khó để cáp được một độ đá vì vậy họ để những người khác đứng tên thay cho mình.
Đừng đá với con cá lớn hơn cá của bạn. Điều cân nhắc này kết hợp từ hai mệnh đề ở trên. Nếu vì quá tin tưởng ở con cá của mình mà đánh giá thấp cá của đối thủ, bạn có thể chấp nhận cuộc chơi ngay cả khi cá đối thủ lớn hơn rất nhiều. Ngoại trừ con cá đó bị bệnh rất nặng, chấp nhận đá với con cá lớn hơn đồng nghĩa với sự thất bại. Cá của bạn sẽ bị mất nhiều năng lượng trong cuộc đấu và rút cuộc phải bỏ chạy vì đuối sức.
Đừng đá cá với bạn thân vì đá cá là trò chơi có tính chất ganh đua. Tình bạn có thể bị sứt mẻ sau các cuộc đá cá với bạn bè. Tuy nhiên, nếu chỉ cá độ một ít tiền hay đơn giản chỉ thi đấu cho vui thì có thể chấp nhận được. Trong trò đá cá, chúng ta cần phải có những người bạn thật tin cẩn để có thể chia xẻ cá đá, kinh nghiệm và sở thích. Tuy vậy, dù rất khó tìm được tình bạn thực sự nơi trường đấu cá, chúng ta lại rất dễ dàng cảm nhận được ý nghĩa và sự thú vị của trò đá cá.
Đừng đá cá với những cao thủ nếu là đá độ ăn tiền. Hầu hếu những người này đá cá vì tiền và tiền là điều họ muốn khi tham gia đá cá. Do đó, họ nắm vững mọi kỹ năng, phương kế và kể cả khả năng dụ bạn sa vào cuộc chơi nếu bạn không cẩn thận. Dĩ nhiên, chẳng có vấn đề gì nếu bạn là người hâm mộ trò đá cá chỉ để cho vui mà không quan tâm đến việc thắng hay bại.
Cũng đừng đá cá nếu bạn không có thời gian để chăm sóc cá của mình. Cá đá cũng cần sự chăm sóc của người nuôi chẳng hạn như việc huấn luyện, cho ăn, làm vệ sinh và điều chỉnh nhiệt độ thường xuyên. Thiếu một trong những điều này sẽ dẫn đến hậu quả không tốt cho cá của bạn.
Các dạng cá đá và kỹ năng chiến đấu của chúng
Cấu trúc cơ thể có ảnh hưởng trực tiếp đến cách đá của cá. Người nuôi cần hiểu biết càng nhiều về cấu trúc cơ thể và cách đá của cá càng tốt để từ đó có thể lựa chọn đối thủ thích hợp nhất cho cá của mình. Hai yếu tố chính dẫn đến thất bại đó là việc lựa chọn đối thủ một cách thiếu cẩn trọng và thiếu hiểu biết về cấu trúc cơ thể cá.
Dạng thân cá lóc hay bản lóc: cá dạng này có đầu dày và tròn, thân tròn và dài. Hình dạng cơ thể nhìn chung rất vững chãi và ổn định. Khi đọ cá từ mặt bên, dạng bản lóc trông có vẻ nhỏ đi bởi vì chúng có vây ngắn vì vậy chúng ta chỉ nên tính phần thân mà bỏ qua phần vây cá. Cách đá của dạng bản lóc là tấn công trực diện và tấn công liên hoàn. Ở điều kiện phù hợp, dạng này ít khi bỏ chạy ngay cả khi bị thương trầm trọng. Dạng bản lóc thường tấn công trực diện rồi bồi thêm nhiều cú liên tiếp hay nói cách khác chúng áp dụng chiến lược gây tổn thương một cách tối đa cho đối thủ.
Con cá ở trên là minh họa về cá đá dạng bản lóc. Mọi phần cơ thể kể từ miệng đến gốc đuôi đều cân đối. Miệng rắn chắc và được hỗ trợ bởi cặp hàm lớn. Gốc đuôi của nó cho thấy sức mạnh và lực phóng mạnh mẽ.
Dạng thân cá thát lát hay bản thát lát: cá dạng này có thân dẹp và mảnh khảnh. Kỳ cũng như các vây dài hơn những dạng khác. Đặc điểm độc đáo của dạng bản thát lát là miệng dài và cong. Nhìn chung, cấu trúc cơ thể rất cân đối và vững chãi. Người không có kinh nghiệm thường thấy dạng cá này "to lớn" bởi vì chúng có vây dài và bơi lội mau lẹ. Ở điều kiện phù hợp, dạng cá này có răng rất sắc và kỹ năng chiến đấu giỏi. Tuy nhiên, bởi vì thân của chúng nhẹ và mảnh mai cho nên lực cắn không được mạnh cho lắm. Dù vậy, dạng cá này lại tấn công rất mau lẹ, chúng thường tấn công đối thủ đến 4 hay 5 lần liên tiếp một cách chính xác và tập trung vào một điểm, nhờ đó mà tạo được vết thương rất lớn. Tuy vậy, dạng cá này cũng có nhiều nhược điểm. Miệng là một trong những phần yếu nhất. Nó có gờ và dễ dàng bị vỡ sau một vài cú câu mõm. Vây cũng dài và dễ dàng trở thành mục tiêu bị tấn công và điều quan trọng nhất là phần thân của cá mỏng và yếu ớt.
Dạng thân cá rô hay bản rô: điểm đặc trưng của dạng cá này là thân dẹp nhưng lại dày và ngắn với cái cổ dày và do đó có lợi thế hơn các dạng cá khác. Miệng của chúng ngắn nhưng môi lại dày. Khi đọ cá từ mặt bên, dạng cá này trông có vẻ lớn hơn nhưng nếu đọ từ phía trên thì trông lại nhỏ hơn bởi vì thân rất ngắn. Cũng bởi thân ngắn, dạng cá này có thể hơi chậm chạp. Chúng thường phản đòn và hầu như tấn công đối thủ vào vùng mắt, miệng hay hàm, từ đó làm suy giảm sức tấn công của đối thủ. Tuy nhiên, nếu đối thủ đủ nhanh, mạnh và tấn công vào miệng và cổ của chúng thì nó có thể khắc chế được dạng này.
Hình minh họa dạng cá bản rô. Dạng cá này thường có vảy dày và cứng. Bởi cấu trúc cơ thể như vậy, chúng cần được ăn kiêng và ngâm trong nước lá bàng khô để cơ thể mảnh mai hơn và cũng chúng cần được nuôi riêng lâu hơn.
Bên cạnh ba dạng cá chính còn có những dạng cá khác mà hầu hết đều là các dạng cá "kiểng". Chúng được nuôi để ngắm chứ không phải để đá. Dạng thân cá mè hay bản mè là một ví dụ, thân của chúng rất to nhưng đầu lại nhỏ và miệng dài. Đây là dòng cá mới mà chúng ta thường thấy trong các cuộc trưng bày cá cảnh. Chúng có cấu trúc cơ thể hoàn toàn tương phản với dòng cá để đá.
Cấu trúc cơ thể có liên quan trực tiếp đến cách thức chiến đấu. Chẳng hạn dạng thân ngắn như bản rô thường đá chậm nhưng lực rất mạnh. Cái thân ngắn và dẹp làm chúng xoay trở chậm. Vì vậy, cách đá hiệu quả nhất là phản đòn với những miếng cắn thật mạnh gây cho đối thủ những vết thương chí tử. Dạng bản lóc lại tận dụng sự nhanh lẹ để vờn xung quanh đối thủ và thường tấn công vào cổ đối thủ. Vì vậy cơ hội để chiến thắng của dạng thân tròn như bản lóc là tấn công một cách chớp nhoáng. Những cú tấn công liên tiếp sẽ làm vết thương mỗi lần mỗi rộng cho đến khi đối thủ phải bỏ chạy vì đau. Tuy nhiên, những cái vây ngắn của chúng lại không hỗ trợ tốt cho việc tránh đòn. Dạng bản thát lát lại tận dụng những cái vây dài để bơi thật nhanh và tấn công liên tiếp. Nhìn chung, dạng cá này bơi rất nhanh và răng rất sắc bén. Điểm yếu của dạng này nằm ở vùng miệng. Bởi vì miệng chúng cong và mảnh nên dễ dàng bị rách sau đòn câu mõm. Thân dạng cá này thường mảnh nên vết thương cũng dễ lan tới xương. Dạng này có cơ hội thắng lợi nếu chúng tấn công dữ dội và tạo ra nhiều vết thương cho đối thủ trong một giờ đầu tiên. Càng về sau, dạng này sẽ đá chậm dần bởi vì điểm yếu của chúng là không được dai sức. Tóm lại, mỗi dạng cấu trúc cơ thể đều có ưu và nhược điểm riêng. Người đọ cá thông minh sẽ phán đoán dạng cá và cân nhắc thiệt hơn một cách cẩn trọng trước khi bước vào độ cá. Nên nhớ rằng con cá luôn sẵn sàng đá bất kể đối thủ có hình dạng và kích thước ra sao, vì vậy, người chủ phải có trách nhiệm cân nhắc sao cho nó gặp được đối thủ ngang cơ.
Dạng cá đá tốt
Như thế nào là dạng cá đá tốt nhất? Dạng cá đá tốt nhất là dạng tổng hợp của cả ba dạng kể trên. Điều đó có nghĩa con cá tốt nhất phải có thân tròn như bản lóc. Nó cũng phải có cái cổ và thân dày như bản rô và bơi nhanh như bản thát lát. Nhìn chung, cấu trúc cơ thể phải cân đối. Kích thước của đầu và gốc đuôi phải có tỷ lệ thích hợp. Mỗi bộ phận cơ thể không được quá to hay quá nhỏ. Chiều dài phần đầu bằng khoảng 1/3 chiều dài thân vì vậy con cá trông không quá dài hay quá ngắn. Cá quá dài hay quá ngắn làm cho chuyển động của nó mất cân bằng.
Con cá ở trên có hình dạng tổng hợp của cả ba dạng cá đá điển hình với cấu trúc cơ thể cân đối. Nó có vây to, đầu và thân dày với cái miệng của dạng bản lóc. Nó phải to xương có nghĩa vẫn giữ nguyên hình dạng khi được ngâm trong nước lá bàng khô trong vòng một tháng. Tuy nhiên, cá có hình dạng hoàn hảo không có nghĩa là nó chắc chắn sẽ là kẻ chiến thắng trong các cuộc đấu. Nó chỉ đơn giản có nhiều lợi thế hơn để chiến thắng đối thủ mà thôi.
Đánh giá cá
Mục đích của việc đánh giá cá là kiểm tra về mức độ phù hợp của con cá trước khi đem huấn luyện rồi sau đó là đi thi đấu. Có hai bước đánh giá cần được thực hiện: 1-đánh giá về sinh lý để biết được mức độ trưởng thành của con cá và đảm bảo cá không bị khuyết tật. 2-đánh giá về tâm lý để biết được mức độ bạo dạn của con cá.
Đánh giá sinh lý: độ trưởng thành của con cá là điều đầu tiên cần phải cân nhắc đến trước khi đem cá đi huấn luyện. Những bộ phận sau đây của cá cần được lần lượt kiểm tra gồm: Miệng-Nắp mang-Mắt-Kỳ-Vảy-Thịt và Cấu trúc tổng quát toàn thân.
Miệng: được coi là bộ phận quan trọng bậc nhất của cá đá bởi vì nó được dùng như là vũ khí tấn công đối thủ. Nếu miệng có vấn đề thì cá khó thắng trận được. Mỗi khi cá tấn công và làm tổn thương đối thủ thì cũng đồng nghĩa với việc nó tự làm miệng của mình bị thương. Hơn nữa, miệng ăn thông với mũi do đó nếu miệng bị thương nặng thì thường dẫn tới việc cá bị sặc nước và thua trận. Vì vậy mà chúng ta thường thấy cá chỉ giả vờ tấn công rồi sau đó quay về trạng thái phòng thủ. Sau đây là những dạng miệng khiếm khuyết mà chúng ta không nên chọn cá có miệng như vậy để đem đi đá:
Miệng bị biến dạng
Miệng không khép kín
Môi sứt
Miệng khoằm hay vểnh
Miệng phù
Miệng sần sùi
Con cá này có miệng không khép kín, môi trên cũng trề ra và méo mó. Cá có miệng tốt phải khép kín và hơi gồ lên một chút.
Mang và nắp mang: là bộ phận cung cấp không khí để cá thở. Một chức năng quan trọng khác của nắp mang là phùng lên để đe dọa đối thủ. Nó là dấu hiệu để phô trương sức mạnh. Theo luật lệ trường đấu, con cá nào có thể phùng hết mang được xem là có ưu thế hơn hơn dù cho nó bị thương nặng hơn. Do đó, con cá bị thương nhẹ hơn nhưng không thể phùng mang có thể bị xem là thua trận. Nếu mang có vấn đề, con cá không thể chịu đựng được lâu và dễ bỏ chạy. Nắp mang phải nằm gọn gàng và đúng vị trí. Bề mặt nắp mang phải trơn láng. Nó có thể đóng mở dễ dàng và không được vướng víu. Các nếp mang được coi là phần yếu nhất ở con cá và phải được xếp gọn gàng phía dưới nắp mang. Nếu nó bị lòi ra thì có thể bị đối phương cắn đứt. Trong điều kiện bình thường, mang chuyển động phập phùng một cách nhẹ nhàng khi cá thở vì vậy nếu nó chuyển động một cách gấp gáp thì chứng tỏ con cá đó có vấn đề bất thường về hệ thống hô hấp. Không nên đem con cá như vậy đi đá. Sau đây là một số dạng mang bị khiếm khuyết:
Mang bị biến dạng
Mang không khép kín
Mang không thể phùng ra hết cỡ
Nếp mang lòi ra.
Con cá này có nắp mang hở. Điều này đồng nghĩa với việc cho phép đối thủ tấn công vào các nếp mang, phần nhạy cảm nhất của con cá.
Mắt: là bộ phận dẫn đường. Nếu mắt có vấn đề thì cá không thể trông thấy địch thủ một cách rõ ràng. Cá sẽ đá chậm lại ngay lập tức nếu mắt bị thương. Một vài con thậm chí còn bỏ chạy khi mắt bị thương. Mắt cá không được mờ và phải nằm ở vị trí thích hợp. Chúng ta có thể kiểm tra độ nhạy của mắt cá bằng cách di chuyển vật sậm màu như đầu bút chì gần lọ cá. Hầu hết những con cá mạnh khỏe đều trở nên linh động, tiến lại gần đầu bút chì và bắt đầu phùng mang giương vây.
Kỳ: được xem như là chân của con cá. Nó được sử dụng để điều khiển và hỗ trợ cho chuyển động của cá. Vì vậy, nếu con cá có kỳ quá ngắn thì sẽ di chuyển không mau lẹ bằng đối thủ. Kỳ cũng phải nằm đúng vị trí thích hợp. Nó phải chuyển động chắc chắn và mạnh mẽ. Kỳ không được cũn cỡn và phải khép sát vào thân.
Vảy: là áo giáp của cá và được bao phủ bởi lớp nhớt. Có hai loại vảy, loại lớn và loại nhỏ. Cả hai đều có đặc điểm riêng. Loại vảy lớn rất khó tróc nhưng một khi bị tróc rồi thì những vảy bên cạnh cũng dễ bị tróc theo. Loại vảy nhỏ dễ bị tróc hơn nhưng các vảy bên cạnh lại không bị ảnh hưởng nhiều. Dù cho là loại vảy gì thì nó cũng phải được sắp xếp một cách đều đặn. Các vảy phải xếp sát vào nhau và trông gọn gàng. Màu vảy phải càng đậm càng tốt vì điều này cho thấy nhớt cá ở tình trạng tốt.
Thịt: là gốc của vảy và giúp vảy được rắn chắc. Vì vậy, nếu cá có thịt chắc và nhiều cơ bắp thì vảy cũng rất chắc. Cá có thịt chắc sẽ rất khó bị thương hoặc vết thương không lan quá rộng và nhờ đó cá không mất quá nhiều máu. Cơ bắp rắn chắc được kết hợp bởi nhiều yếu tố như di truyền, môi trường nuôi dưỡng, thức ăn, dạng cá, độ tuổi và sự huấn luyện. Cá cùng bầy nhưng được huấn luyện bởi những người chủ khác nhau có thể có chất lượng khác nhau, kể cả về dạng cấu trúc cơ thể. Điều này lý giải tại sao hầu hết những con cá đá bậc nhất đều xuất phát từ các cao thủ huấn luyện cá. Chúng ta không thể thấy một con cá có thịt tốt thế nào nếu như chúng ta không đem chúng đi đá với con khác có cùng đẳng cấp. Thịt tốt có nghĩa vết thương mà nó nhận phải không lan rộng và trở nên trầm trọng hơn khi bị đối thủ cắn lủng lớp vảy. Hơn nữa, nó phải có khả năng phục hồi thật nhanh sau trận đấu.
Cấu trúc tổng quát toàn thân: phải được cân đối. Tất cả các bộ phận bên ngoài phải mạnh mẽ và cân xứng. Thân không được quá dài hay quá ngắn vì có thể làm cho cá bơi chậm và khó xoay trở khi bị đối thủ áp sát.
Đây là một ví dụ về cá có cấu trúc cơ thể không tốt, được biết như là dạng thân cá mè. Cá trông rất lớn bởi vì thân dẹp và nhiều thịt nhưng lại rất yếu ớt. Nó là mục tiêu to lớn dễ bị tấn công. Dạng mặt nhỏ và cong cũng như mõm nhọn là nhược điểm và dễ dàng bị rách chỉ sau một vài cú câu mõm. Cũng dễ nhận thấy dạng đầu này rất dễ bị sặc nước bởi vì xương mặt không được hỗ trợ bởi những xương hàm lớn.
Đánh giá tâm lý: sự ổn định về tâm lý của cá cũng là yếu tố chính trước khi thi đấu. Có nhiều trường hợp con cá tự nhiên bỏ chạy dù nó đang tấn công và làm đối thủ bị thương rất nặng. Vài con cá từng đá rất tốt cũng bỗng dưng bỏ chạy chỉ sau 10 phút. Một vài cao thủ đá cá cố đưa ra lời giải thích cho hiện tượng kỳ lạ này như sau: con cá bị "xuống cấp" bởi vì không được ngâm trong nước lá bàng khô đủ lâu...
Cá đá cần có tâm lý ổn định. Trong trường đấu, có rất nhiều nhiễu loạn ảnh hưởng đến tâm lý thi đấu chẳng hạn như tiếng động bất ngờ và sự di chuyển của mọi người xung quanh. Nếu cá không có tâm lý ổn định, nó sẽ không thể chịu đựng được một cuộc đấu khốc liệt. Nhược điểm này có thể quan sát thấy khi cá có biểu hiện lo lắng hay sợ hãi. Một khi con cá quá căng thẳng, nó sẽ vứt bỏ bản năng chiến đấu và nghiêm trọng hơn là nó mất đi lớp nhớt bảo vệ cơ thể. Một khi lớp chất này mất đi thì sẽ chẳng còn gì để bảo vệ nó khỏi những cái răng sắc bén của đối thủ.
Hiện tượng cá bị nhát có nhiều nguyên nhân. Nó có thể khởi đầu từ môi trường lai tạo, môi trường phòng nuôi hay cách huấn luyện.
Môi trường lai tạo: đôi khi không được yên tĩnh bởi những kẻ thâm nhập và quấy rối. Rắn, bò sát hay chim là những kẻ thâm nhập nguy hiểm nhất và sự quậy phá của chúng có thể làm đổ chai lọ làm cho những con trong các lọ còn lại bị khủng hoảng và trở nên nhút nhát. Vài con sẽ trốn luôn trong góc hay giữa đám rong. Kẻ thâm nhập khó chịu nhất là mèo khi chúng đuổi chuột trên các tấm bạt mà người nuôi dùng để đậy hồ. Âm thanh bất thình lình phát ra từ phía trên có thể làm cá lo lắng và sợ hãi. Bình thường, cá có thể không biểu hiện sự nhút nhát nhưng sẽ bỏ chạy nếu bị tác động tương tự khi đang đá. Tuy nhiên, đa số cá đá có thể vượt qua các tác động nhiễu loạn từ bên ngoài và không hề có biểu hiện nhút nhát.
Nhiễu loạn trong phòng nuôi: đôi khi cá nhút nhát chỉ vì phòng nuôi không được canh chừng cẩn thận. Ví dụ như mèo, chuột rượt đuổi nhau vào ban đêm trong khi cá đá cần được nghỉ ngơi hoàn toàn. Tiếng động phát ra từ những kẻ thâm nhập cũng như chai lọ đổ vỡ có thể làm cho cá sợ hãi từ đó trở nên nhút nhát.
Cách huấn luyện: cá nhát cũng bởi vì người chủ nuôi không đúng cách. Kể từ khi được bắt ra khỏi ao, cá phải tập làm quen với việc thay đổi môi trường nuôi dưỡng một cách liên tục. Trạng thái tâm sinh lý của cá phải thật vững vàng và quen với sự thay đổi. Một số cá không thể chịu được sự thay đổi bất thình lình và bị sốc nếu chúng ta không cẩn thận. Ngay khi được ngâm trong nước lá bàng khô, lọ cá cần phải đem để nơi hơi tối. Người huấn luyện bất ngờ mở nắp và vớt cá bỏ vô lọ nước hoàn toàn mới để ngoài trời. Cá sẽ bị bối rối và sốc với môi trường mới, màu sắc của nó sẽ trở nên nhợt nhạt. Nó mất cả ngày để đáp ứng với môi trường mới. Tuy nhiên, một số cá đá lại phản ứng hoàn toàn trái ngược, chúng thể hiện hết bản năng chiến đấu bằng cách giương vây, phùng mang rồi mổ vào thành lọ mà đôi khi kết thúc với cái miệng bị thương.
Người huấn luyện cần kiểm tra trạng thái tinh thần của cá trong thời kỳ huấn luyện. Kiểm tra trạng thái tinh thần là đánh giá cơ bản để xác định xem có nên đem cá ra trường đấu hay không. Nếu cá có biểu hiện sợ hãi bằng cách thu mình vào một góc khi được đổ vào lọ mới, nó phải được trì hoãn hoặc dừng không đem ra trường đấu. Sau đây là một số dấu hiệu cho thấy cá bị nhát:
- Khi chúng ta lại gần lọ nuôi cá, con cá bơi một cách hốt hoảng hay nhảy lồng lộn lên mặt nước vì sợ hãi.
- Khi chúng ta để cá rượt đuổi cá mái trong một cái chậu lớn, cá không rượt đuổi mà trái lại nép mình vào góc hồ hay trốn vào bụi rong.
- Khi chúng ta đưa một cây viết chì đến gần lọ mà cá lại sợ hãi và bỏ chạy.
Khi bỏ cá vào lọ khác để huấn luyện, chúng ta nên kiểm tra về trạng thái sinh lý cũng như tâm lý của cá. Chúng ta nên quan sát thật kỹ để phát hiện các nhược điểm nếu có. Kiểm tra độ mức độ hung dữ bằng cách đưa đầu bút chì lại gần lọ cá. Nếu cá phản ứng lại bằng cách giương vây, phùng mang thì chứng tỏ nó đã sẵn sàng. Bạn cũng có thể nhận thấy cá có biểu hiện sợ hãi khi bỏ vào môi trường mới và đầu bút chì có thể làm chúng sung trở lại.
Sau đây là các cách phòng chống chứng hoảng loạn ở cá:
- Bố trí phòng nuôi cá để có thể ngăn cản những kẻ quậy phá như mèo, chuột thâm nhập vào và làm náo động.
- Có hai cách đem cá đang dưỡng trong nước lá bàng khô đi huấn luyện; nếu chúng ta làm vào ban ngày để tập cho cá quen với môi trường ánh sáng và âm thanh náo động vào ban ngày thì dùng chậu, đặt trong phòng nuôi cá, mở nắp cho thoáng khí. Sau đó, nhẹ nhàng dùng tay vớt cá đem bỏ vào chậu mới. Nước trong chậu mới được chuẩn bị từ trước đó 2 ngày cùng với rong, một ít lá chuối và lá bàng khô. Nhẹ nhàng nắm cá trong tay, nó sẽ cảm nhận được sự săn sóc của con người. Vì vậy, nó sẽ nhanh chóng đáp ứng với môi trường mới. Những mảnh lá chuối và lá bàng khô làm giảm bớt sự phản xạ ánh sáng trong chậu. Tuy nhiên, nếu không có thời gian thì chúng ta có thể làm vào ban đêm và cho cá ăn toàn bằng thức ăn tươi sống. Bóng tối và thức ăn làm cá bớt căng thẳng. Nó sẽ tự đáp ứng với môi trường mới vào buổi bình minh.
- Trong phòng nuôi cá, chúng ta nên bật radio để nghe nhạc. Âm thanh và nhạc phát ra từ radio làm cho cá quen với tiếng người và sẽ không bị căng thẳng khi được đem đến trường đấu đông đúc và ồn ào.
- Khi vào phòng nuôi cá, chúng ta nên bước nhẹ nhàng chứ không nên chạy ào vào làm cho cá bị hoảng sợ.
Bắt cá nuôi riêng
Có ba công đoạn để biến cá đá thường thành cá đá tuyển, tất cả được thực hiện trong cùng một giai đoạn bao gồm: bắt cá nuôi riêng, cho cá ăn kiêng và làm mình cá săn chắc. Người nuôi nên hoàn tất cả ba công đoạn này trước khi thực hiện các bước huấn luyện kế tiếp.
Bắt cá nuôi riêng: trước khi đem cá đi đá, chúng ta cần phải trải qua giai đoạn chuẩn bị. Bước chuẩn bị này là một trong số những bước chủ yếu trong việc huấn luyện cá đá gọi là bắt cá nuôi riêng. Vậy bắt cá nuôi riêng là gì? Ý tưởng cơ bản của việc bắt cá nuôi riêng là tách chúng ra khỏi đàn. Cá sẽ phát triển từ một con cá bình thường thành một đấu sĩ. Trong tự nhiên, khi cá đực trưởng thành nó sẽ tự tách khỏi bầy và tìm cho mình một lãnh địa riêng để làm tổ và dẫn dụ con cái vào đẻ trứng. Trong giai đoạn này, cá đực sẽ bảo vệ lãnh thổ và đánh đuổi bất kỳ sinh vật nào lảng vảng gần đó. Vì vậy, sự tách bầy khi trưởng thành có liên quan trực tiếp đến mức độ hung dữ của cá. Chúng ta nắm lấy ý tưởng này và áp dụng cho bầy cá nuôi. Điều này có nghĩa là bắt cá đem nuôi ở lọ riêng. Có thể thấy rằng nếu chúng ta nuôi cá ở môi trường thích hợp thì chỉ qua một đêm nó sẽ tự tạo một ổ bằng bọt khí. Ổ bọt là dấu hiệu của sự thành thục, bảo vệ và hiếu chiến ở cá.
Cho cá ăn kiêng: sự khác biệt giữa cá nuôi và cá hoang ở chỗ cá nuôi được nuôi thường xuyên bằng thức ăn tươi giàu chất đạm trong một môi trường giới hạn. Cá bình thường rất mập và lớn con. Quá trình nuôi riêng giúp cá ăn kiêng. Nếu cá quá gầy thì đây là cơ hội để tẩm bổ cho nó. Chúng ta có thể chia cá ra làm 3 loại bằng việc quan sát hình dạng của chúng từ phía trên.
- Cá bình thường: khi các phần đầu, bụng và thân cá có tỷ lệ đều đặn từ lớn đến nhỏ. Tuy nhiên, chúng ta cần phải cảm nhận được hình dạng tối ưu của cá. Dạng bình thường là dạng thích hợp và dễ điều chỉnh nhất. Chúng ta cho cá ăn cung quăng (khoảng từ 8-10 con) hay các loại thức ăn tươi khác như bo bo, trùn chỉ, nhưng chỉ cho ăn một lần mỗi ngày. Quá trình nuôi riêng kéo dài từ 7-10 ngày. Trong quá trình này, chúng ta nên cho cá ăn kiêng cho đến khi chúng hơi gầy. Điều này sẽ làm cá đá nhanh và linh động hơn.
- Cá gầy: khi các phần đầu và bụng cá có tỷ lệ không đều đặn, đặc biệt phần thân cá trông gầy giơ xương. Để làm cho cá mập hơn thì chỉ cần cho chúng ăn nhiều cung quăng hơn và để dư một ít trong chậu. Quá trình nuôi riêng kéo dài từ 5-7 ngày và thức ăn được điều chỉnh tùy vào hình dạng thực tế của chúng.
- Cá mập: khi các phần đầu, bụng và thân cá có tỷ lệ không đều đặn. Cá trông dường như có rất nhiều thịt. Cá cần được nuôi riêng lâu hơn, khoảng từ 10-21 ngày và cho ăn hạn chế. Chúng ta chỉ nên cho cá ăn 8 con cung quăng mỗi ngày nhưng ngày nào cũng phải cho ăn. Nếu cá vẫn mập thì chúng ta phải cho ăn ít đi hay nếu gầy quá thì lại cho ăn nhiều lên.
Hầu hết cá đá đều có hình dạng bình thường hay hơi gầy. Tuy nhiên, bạn nên nhớ rằng điều này không áp dụng đối với mọi dòng cá. Một số dòng cá đá rất tốt nếu hơi mập, một số dòng khác thì phải hơi gầy. Tốt nhất là nên tìm hiểu thông tin về vấn đề này từ nhà lai tạo.
Làm mình cá săn chắc: sự săn chắc của vảy cá phụ thuộc vào độ tuổi, tốc độ lớn và dòng cá. Vì vậy, chúng ta không có cách nào để làm biến đổi một cách thần kỳ từ cá có vảy bình thường thành cá có vảy cứng. Nhưng trong thời gian nuôi riêng, chúng ta có thể ngâm cá bằng một số loại lá khô làm cho nước có màu như màu nước trà nhờ đó mà da thịt và vảy cá được săn chắc. Lá bàng khô được sử dụng rộng rãi nhất nhưng chúng ta cũng có thể sử dụng những loại lá khác với công dụng tương đương. Một số loại lá cây có mùi rất đặc biệt có thể làm cho cá đối phương phải hoảng sợ. Vài loại lá khác lại có tác dụng ngăn cản sự viêm nhiễm và làm lành vết thương.
Sau đây là những loại lá mà chúng ta có thể dùng để ngâm cá:
- Lá chuối khô: nhựa từ cuống lá có thể ức chế sự phát triển của vi khuẩn Escherichia coli, nguyên nhân chính gây ra các bệnh tiêu chảy và kiết lỵ. Chất tannin có nhiều trong lá cũng có khả năng chữa bệnh lỵ.
- Lá bàng khô (Terminalia catappa L.): trước đây thường được dùng để chữa bệnh tiêu chảy ở người. Lá này còn dùng để chữa bệnh nổi mề đay và ngứa ngáy đồng thời có tác dụng làm đổ mồ hôi từ đó giải độc cho cơ thể. Trái bàng ăn vào rất nhuận tràng.
- Casearia grewiifolia[1].
- Vỏ dừa, lá dừa khô (Cocos nucifera Linn.).
- Quả hay vỏ khô của cây muồng hoàng yến (Cassia fistula L.)[2].
- Lá tếch khô (Tectona grandis L.)[3]. Công dụng giống như lá bàng khô.
- Lá cây chiêu liêu hồng, xàng hay tiếu (Terminalia chebula)[4].
- Vỏ trái keo cau khô (Acacia catechu)[5]. Có chứa nhiều chất tannin dùng để chữa bệnh tiêu chảy và kiết lỵ.
- Các loại lá khác.
Thông thường, trong tuần nuôi riêng đầu tiên, chúng ta bỏ lá khô làm cho nước có màu như màu nước trà. Trong tuần thứ hai, chúng ta giảm nồng độ bằng cách lấy bớt phân nửa nước cùng với chất thải cá rồi thêm nước mới vào. Lá cây làm cho nước hơi có tính acid, khoảng 6.5 độ pH. Nồng độ pH như vậy hạn chế sự tăng trưởng của vi khuẩn trong nước và hỗ trợ cho chất nhớt của cá. Những chất tiết ra từ lá ngấm vào cá và làm cơ bắp của nó săn chắc. Vào ngày thứ 8, chúng ta đem cá bỏ vào lọ khác. Chúng ta có thể thấy rằng cá trông có vẻ nhỏ và mảnh khảnh hơn so với ngày đầu tiên mới thả. Cá trông linh động hơn, bơi nhanh hơn và trở nên dạn dĩ hơn trước con người. Đồng thời, cá cũng trở nên rất hung dữ và sậm màu chỉ trong một thời gian ngắn.
Xây dựng môi trường huấn luyện và điều trị bệnh
Cá đá là một trong số những loài nhạy cảm nhất trong số các loài sinh vật máu lạnh. Khi nhiệt độ môi trường thay đổi, trạng thái sinh lý của chúng cũng bị ảnh hưởng từ đó tác động trực tiếp lên năng lực chiến đấu và cảm nhận của cá. Việc xây dựng một môi trường huấn luyện thích hợp là điều nên được cân nhắc một cách nghiêm túc bằng không cá có thể bị căng thẳng dẫn đến dễ bị ngã bệnh rồi lây sang những con cá khác cùng phòng. Chẳng hạn phòng quá nóng hay quá lạnh, nhiệt độ trong phòng thay đổi quá nhiều giữa ngày và đêm sẽ làm cá bị suy nhược. Theo kinh nghiệm của tôi, nhiều người đá thua bởi vì không bố trí phòng huấn luyện một cách thích hợp. Nếu được bố trí thích hợp, phòng nuôi cá có thể giúp cá mạnh khỏe hơn và cải thiện kỹ năng chiến đấu của cá. Ý tưởng chung về một phòng nuôi cá đó là nó phải thoáng khí và có ánh sáng tự nhiên chiếu vào cả ban ngày lẫn ban đêm. Nên có luồng gió nhẹ lưu thông trong phòng. Nhiệt độ phòng không được thay đổi quá đột ngột vì nó làm cá bị suy nhược. Các lỗi liên quan đến việc bố trí phòng nuôi cá gồm: phòng kín hay thiếu luồng khí luân chuyển. Nhiệt độ trong phòng quá nóng hoặc quá lạnh tức là biến thiên quá 3 độ C. Phòng nuôi cá cần phải có những dụng cụ cần thiết và được đặt đúng nơi quy định.
Xây dựng môi trường huấn luyện: là việc quản lý phòng nuôi cá và nhân tố chính đem lại chiến thắng tại trường đá cá. Sau đây là những vấn đề liên quan đến phòng nuôi cá gồm: môi trường, dụng cụ và thuốc điều trị.
Vị trí: hồ cá phải được bố trí nơi thật thoáng khí, có ánh nắng chiếu vào buổi sáng và bóng râm vào buổi chiều. Để giảm tiếng ồn vào ban ngày và ánh sáng vào ban đêm, phòng nuôi cá phải xa phòng sinh hoạt của người. Phòng cũng nên được đóng kín để tránh chó, mèo, chuột hay rắn thâm nhập. Cũng cần tránh các yếu tố gây nhiễu như tiếng ồn, sự rung động hay chớp sáng. Nhưng phòng cũng không nên quá xa nơi ở để chúng ta có thể đến đó vào bất kỳ lúc nào mà chăm sóc cá. Tôi thường đến phòng nuôi cá cứ cách mỗi 2 giờ vào ban ngày nếu tôi không có việc gì bận.
Không gian và thiết kế của phòng nuôi cá: thật khó mà đưa ra một tiêu chuẩn cụ thể về phòng nuôi cá. Không gian thay đổi tùy vào số lượng cá hay không gian hiện hữu mà bạn có. Ý tưởng chung về phòng nuôi cá là nó phải thoáng khí và có ánh sáng tự nhiên chiếu vào. Phòng nên được chia làm 2 phần, phần nuôi cá và phần để làm việc (một số người còn thích qua đêm ngay tại phòng nuôi cá). Phần nuôi cá nên chia làm 3 gồm 1-cá đã huấn luyện và chuẩn bị để đem đi đá, 2-nơi để các lọ huấn luyện cá, 3-nơi nuôi cá sắp được huấn luyện (thường là cá đang được ngâm trong lá bàng khô). Để thuận tiện cho công việc, chúng ta nên đóng các kệ để đặt hồ cá và chai lọ để vừa tiết kiệm không gian vừa dễ thao tác.
Sàn: loại sàn và môi trường xung quanh phòng nuôi cá đóng vai trò rất quan trọng trong việc duy trì nhiệt độ được ổn định. Loại sàn lý tưởng được làm bằng gỗ bên trên hồ nước hay mặt đất. Nước và đất thẩm thấu nhiệt độ và độ ẩm và giữ cho chúng được ổn định. Không nên để nhiệt độ phòng nuôi cá thay đổi đột ngột. Tuy nhiên, nên nhớ rằng nhiệt độ trong phòng nuôi cá nên được duy trì ở khoảng từ 28-30 độ C với độ ẩm nhất định. Nên tránh sử dụng sàn bê tông vì xi măng giữ nhiệt và tỏa ra rất chậm làm cho phòng nuôi cá lúc nào cũng nóng nực. Phòng nuôi cá kín mà lại thiếu một hệ thống thông thoáng khí là môi trường không tốt cho cá. Quan trọng hơn cả là nhiệt độ phòng nên từ 28-30 độ C vào ban ngày. Sự biến đổi nhiệt độ nhỏ sẽ không làm cá bị suy nhược. Nơi tốt nhất để xây dựng phòng nuôi cá là bên dưới một gốc cây lớn để tận dụng bóng mát tự nhiên và cây cối xung quanh. Nền tốt nhất là nền đất tự nhiên vì nó luôn làm nhiệt độ phòng ổn định và mát mẻ.
Mái che: nên được làm từ các loại vật liệu cách nhiệt và không giữ nhiệt để có thể tỏa nhiệt một cách nhanh chóng. Vì vậy, mái che không nên được lợp quá thấp bởi như vậy thì nhiệt độ bên ngoài sẽ tác động nhiều hơn vì vậy mà nên lợp mái che cao. Vị trí thích hợp của mái che tùy thuộc và từng địa điểm. Để kiểm tra, bạn có thể vào phòng nuôi cá vào lúc 2 giờ trưa mà thấy vẫn mát mẻ là được. Nhưng nếu bạn cảm thấy nóng nực và khó chịu điều đó có nghĩa là cá của bạn sẽ cảm thấy tệ hơn vậy rất nhiều. Vật liệu để lợp mái có thể làm bằng lá dừa hay cỏ tranh. Tấm lợp xi măng cũng tốt nhưng nên được bố trí cao hơn, khoảng 3 mét kể từ sàn và tốt nhất nên có cây cỏ mọc trên mái.
Đây là ví dụ về một phòng nuôi cá không tốt. Mái được lợp bằng tấm lợp xi măng nhưng lại để khá thấp, chiều cao chỉ có 2.5 mét. Không có cây lớn để hạn chế ánh nắng làm cho phòng nuôi cá luôn nóng nực. Lưới nhựa để hạn chế ănh nắng chỉ có tác dụng đến gần trưa nhưng lại ngăn cản sự lưu thông của không khí và làm cho phòng nuôi cá tối tăm.
Phòng nuôi cá này lại hẹp và chật chội. Có thể đoán rằng người chủ không thể ở trong phòng thường xuyên. Ban ngày mà bật đèn là không cần thiết.
Có thể thấy các tấm chăn ẩm đắp bên trên và bên dưới các lọ cá cùng với sàn xi măng được vẩy nước. Tất cả là để giảm nhiệt độ trong phòng. Nhưng như vậy thì quá mất công nên cũng coi như là thiết kế không tốt.
Mái được lợp bằng tấm lợp xi măng. Nó giữ nhiệt rất lâu nên sẽ làm phòng nuôi cá nóng nực. Người chủ cải thiện bằng cách lợp thêm một lớp lá dừa để cách nhiệt.
Còn đây là một phòng nuôi cá lý tưởng. Sàn nhà được lát bằng gạch màu. Mái lợp bằng lá dừa dưới tán cây mát mẻ. Bên dưới là một hồ lớn tạo hơi nước ẩm ướt.
Quan sát kỹ bên trong phòng này. Sàn nhà là nơi giải trí cho một nhóm người đến ăn uống và đánh bài. Trong môi trường như vậy, cá sẽ quen với sự hiện diện của con người.
Một dãy lọ được xếp trong một góc thích hợp với các tấm che bằng nhựa để che nắng nhưng vẫn đủ ánh sáng. Phòng nuôi cá này được bố trí lộ thiên nên không có vấn đề về mặt thông thoáng.
Dụng cụ: trong các phòng khác bạn có thể chỉ cần một đến hai cái vợt để bắt cá nhưng trong phòng huấn luyện, bạn cần hàng loạt vợt và các loại bình lọ để đựng cá. Sau đây là những dụng cụ quan trọng dùng trong phòng nuôi cá.
- Muỗng: dùng để vớt cá từ lọ này sang lọ khác. Nó phải tròn và không có cạnh sắc để tránh làm tổn thương cá khi bắt và thả.
- Vợt nhỏ: để bắt cá mái khỏi chậu. Lưới phải mềm để tránh làm cá bị thương.
- Chậu nhựa: để thay nước. Chậu nên có thể tích chuẩn để dễ định lượng khi thay nước.
- Cá mồi: để cho cá ăn.
- Phấn viết bảng: để ghi chú các chi tiết liên quan đến cá.
- Kiếng lúp: để kiểm tra khuyết tật ở cá.
- Ống nhựa: để thay nước và làm vệ sinh lọ cá.
- Máy sục khí: để nuôi trùn chỉ.
- Chậu huấn luyện cá: có kích thước khoảng 50 lít. Nhiều nhà đá cá chuyên nghiệp sử dụng lọ hình tròn để huấn luyện cá bởi vì nó không có cạnh làm cá bị thương và cá mái bơi nhanh hơn.
- Tấm chắn: nên có màu xám và không được bóng vì nó có thể phản chiếu hình ảnh làm cho cá tưởng rằng có con cá ở phía đối diện mà tấn công vào kiếng làm hư miệng.
Thuốc điều trị: cá đá là một trong những loài mạnh mẽ nhất trong hồ cảnh vì vậy phòng nuôi cá chỉ cần trữ những loại thuốc thông thường. Tuy nhiên, luôn nhớ rằng "phòng bệnh hơn chữa bệnh" là nguyên tắc quan trọng của mọi phòng nuôi cá. Không giống như Betta splendens cảnh, cá đá một khi mắc bệnh dù là bệnh rất thông thường như bệnh nấm, người huấn luyện sẽ liệt nó vào loại cá bình thường. Người huấn luyện sẽ phải ngâm cá vào lá bàng khô trong giai đoạn nuôi riêng để phòng bệnh. Hầu hết các cao thủ đều điều trị cá bằng các loại dược liệu tự nhiên để tránh tác dụng phụ của chất hóa học. Vì thế, hầu hết dược liệu sử dụng trong phòng huấn luyện cá đều đơn giản và có tác dụng phòng bệnh là chính, chúng gồm:
- Dung dịch Acriflavine 0.1%: dùng để ngâm cá vừa thi đấu xong với liều lượng khoảng 2 giọt/ 50 cc như hướng dẫn. Nó cũng dùng để phòng bệnh nhất là đối với cá cái sử dụng để huấn luyện và thường bị cá đực cắn bị thương.
- Methylene blue: có tác dụng chống nấm và vi khuẩn.
- Dung dịch đa sinh tố: sử dụng một giọt/ một lít như hướng dẫn. Sinh tố rất cần thiết cho cá trong giai đoạn huấn luyện, cá sẽ tiêu thụ rất nhiều sinh tố và chất khoáng để tăng cường cơ bắp và duy trì thể trạng.
- Muối: hiệu quả sử dụng chưa rõ ràng. Người ta dùng muối để làm mềm nước và tăng cường chất khoáng.
- Lá bàng khô (Terminalia catappa) hay các loại dược thảo khác: đóng vai trò rất quan trọng trong lãnh vực nuôi cá đá. Nó được sử dụng để kháng viêm, phục hồi sinh lực và chữa lành các vết thương của cá. Nó cũng chữa trị chứng sưng mắt một cách hiệu quả nhưng phải dùng với liều lượng cao làm nước có màu nâu sậm. Chỉ cần sau từ 3-5 ngày là mắt cá sẽ trở lại bình thường. Trong chậu cho cá đẻ, nó làm cho nước có độ acid khoảng 6 độ pH hoặc hơn. Thực tế cho thấy trong điều kiện như vậy tỷ lệ cá đực trong bầy tăng lên rất nhiều.
- Lá chuối khô: có công dụng tương tự như lá bàng khô nhưng tác dụng yếu hơn mặc dù nó cũng rất tốt để chữa trị chứng sưng mắt. Mục đích chính của việc sử dụng lá chuối khô là để làm mềm nước, điều kiện phù hợp cho cá đá. Người huấn luyện tước lá thành những mảnh dài để cá có thể trú ẩn một cách dễ dàng trong lọ nuôi.
- Đất sét: sử dụng đất sét phơi khô để làm mềm nước và tăng cường sinh lực cho những con cá sống trong lọ quá lâu ngày. Nó cũng rất tốt vào mùa đông vì đất sét bám vào người cá giống như tấm chăn mỏng giúp cá chống lạnh. Nhà lai tạo cũng cho đất sét vào hồ đẻ để cung cấp các vi sinh vật làm thức ăn cho cá con được vài tuần tuổi.
- Các loại dược thảo khác.
Các bệnh liên quan đến cá đá:
Căng thẳng là một trong những bệnh chính của cá đá. Căng thẳng xuất phát từ những sự thay đổi thất thường của thời tiết và việc điều hành phòng nuôi kém. Nên nhớ rằng chúng ta không nên huấn luyện hay đem cá đi đá một khi nó chưa lành bệnh. Khi huấn luyện, bệnh có thể lây qua những con cá được thả chung hồ khác. Sau đây là những nguyên nhân gây bệnh chính ở cá đá:
Thời tiết thất thường: các bệnh liên quan gồm bệnh đốm trắng và bệnh nấm.
Huấn luyện quá nặng: bệnh xuất hiện sau thời kỳ huấn luyện quá độ. Bệnh nấm Saprolegnia phát sinh và thâm nhập vào những vết thương trong khi huấn luyện, thường là ở mắt và miệng.
Thay đổi môi trường quá nhiều: có nghĩa là thay đổi vị trí quá nhiều dù là ngay trong một phòng nuôi cá. Cá có thể bị căng thẳng khi được thả vào môi trường mới chẳng hạn như nước mới, lọ mới... Một khi cá cảm thấy căng thẳng, hệ thống miễn nhiễm của nó bị suy giảm và cá dễ bị nhiễm bệnh.
Cá mái sử dụng để huấn luyện: là một trong những nguyên nhân gây bệnh chính. Cá đực đuổi và cắn cá mái làm nó bị thương và dễ nhiễm bệnh. Khi đem cá mái về hồ nuôi chung, nó có thể truyền bệnh hay nhiễm bệnh từ những con cá mái khác từ đó bệnh lan truyền toàn bộ phòng nuôi cá.
Các vật thể thả trong lọ: như là lá bàng khô hay rong có thể là trung gian truyền bệnh. Chúng phải được rửa sạch bằng nước máy trước khi bỏ vào lọ. Lá bàng nên được phơi nắng cho đến khi khô hẳn. Rong nên giữ yên ở một lọ trong một hai tuần trước khi bị bỏ đi vì mục. Lá mục là nguồn nuôi dưỡng và phát sinh các vi khuẩn gây bệnh. Vợt và muỗng cũng là nguồn lây bệnh và nên được phơi khô mỗi tuần một lần.
Bệnh cá là một trong những nguyên nhân chính làm cá đá thua, làm điêu đứng các phòng nuôi và trại cá. Một khi cá bị bệnh, nó sẽ bị yếu đi và không bao giờ hồi phục lại được như cũ. Và bạn cũng phải luôn nhớ là không bao giờ được đem con cá đang bị bệnh (hoặc đã từng bị bệnh) ra ngoài trường đá.
Lọ nuôi cá
Cá đá là loài xác định lãnh thổ và lọ nuôi chính là lãnh thổ đó với cái tổ bằng bọt khí ở trung tâm. Tổ bằng bọt khí là dấu hiệu cho thấy sự hung dữ của cá. Một con cá khỏe mạnh có thể tạo ra một tổ bằng bọt khí (sau khi đã lựa chọn địa điểm thích hợp) trong một, hai ngày sau khi được thả vào nơi ở mới. Vì vậy, việc bố trí lọ nuôi cá một cách thích hợp đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tăng cường khả năng chiến đấu của cá. Người huấn luyện phải cung cấp môi trường sống thích hợp để cá được thoải mái và không bị căng thẳng hay sợ hãi.
Nơi đặt lọ nuôi cá: bên cạnh tầm quan trọng của việc bố trí phòng nuôi cá như đã thảo luận ở trên, việc sắp đặt lọ nuôi cá cũng quan trọng tương đương. Lọ nuôi cá nên được đặt trên kệ ở ngang tầm mắt tùy thuộc vào việc bạn thích đứng hay ngồi để quan sát cá của mình. Tôi khuyên là nên bố trí ở tư thế ngồi như vậy bạn có thể quan sát cá được thoải mái và lâu hơn nhờ thế mà bạn có thể phát hiện được một số chi tiết tốt hoặc xấu ở cá của mình. Điều này cần thiết cho việc huấn luyện cá sau này. Tôi thường dùng cách này để quyết định xem con cá nào được đem đi đá hay giữ lại cho dù theo kế hoạch cả hai đều có thể mang đi đấu. Một số người kê bàn cao lên cả gang tay và sử tấm ngăn chia bàn ra làm 2 phần. Với cách này họ có thể quan sát cá từ hai phía bởi vì các lọ cá được kê ngang tầm mắt. Họ cũng thích ngồi từ bàn làm việc để quan sát cá. Đây là phương cách chuyên nghiệp để đánh giá cá. Số lượng lọ nuôi nên là số chẵn vì vậy mỗi con cá sẽ đối diện với một con khác khi tấm ngăn được lấy đi. Người nuôi nên che nắp lọ bằng chăn hay vải cotton. Nếu nhiệt độ trên 28 độ C thì chăn nên được tẩm ướt để giữ nhiệt độ lọ nuôi được ổn định. Nó cũng nên đủ lớn để có thể che kín mặt trước của lọ vào ban đêm (mặt kia đối diện tấm ngăn). Cách này chống được đèn chớp hay vật lạ thâm nhập và quấy rối phòng nuôi cá vào ban đêm và đảm bảo cá có thể được nghỉ ngơi hoàn toàn. Lọ cá nên được làm vệ sinh định kỳ để phòng bệnh và mặt bên phải thật sạch để cá dễ thấy đối thủ bên lọ đối diện.
Sự thay đổi về thời tiết và nhiệt độ dường như là nguyên nhân chính làm cá bệnh và giảm phong độ. Sự thay đổi nhiệt độ ở lọ cá có hai nguyên nhân, thứ nhất là cấu trúc của phòng nuôi cá (như thảo luận ở trên), thứ hai là sự thay đổi của thời tiết. Dù là nguyên nhân nào thì người huấn luyện phải có khả năng điều chỉnh nhiệt độ và cung cấp một môi trường thích hợp cho cá.
Các loại lọ nuôi cá: có hai loại lọ nuôi cá mà người huấn luyện thường sử dụng trong giai đoạn huấn luyện. Loại thứ nhất có đường kính khoảng 25 cm, cao khoảng 30 cm, hình tròn và chứa từ 10-15 lít nước. Loại lọ này được sử dụng trong tuần huấn luyện đầu tiên. Loại lọ thứ hai là loại dành cho các cuộc đấu cá. Ở Thái Lan, loại lọ truyền thống dùng để đá cá chứa khoảng 2 lít nước.
Loại và kích thước lọ liên quan trực tiếp đến hoạt động huấn luyện. Chúng ta sẽ đi sâu về vấn đề này trong phần huấn luyện.
Lọ cỡ nhỏ cũng cần thiết vào mùa đông hay khi nhiệt độ phòng xuống dưới 25 độ C. Cá đá không thích hợp với nhiệt độ dưới 28 độ C vì vậy loại lọ nhỏ dễ điều chỉnh nhiệt độ hơn. Nhiệt độ thấp làm cá lờ đờ và biếng ăn. Lọ nuôi cỡ nhỏ cũng kích thích tính hung dữ ở cá bởi vì cá luôn cạnh tranh lãnh thổ với nhau.
Chậu nuôi cá lớn thích hợp trong mùa nắng khi nhiệt độ phòng trên 28 độ C. Ở nhiệt độ cao, vi khuẩn hoạt động mạnh hơn trong khi cá lại dễ bị căng thẳng và nhiễm bệnh. Cá cũng bị sụt giảm trọng lượng nhanh hơn vì vậy chúng ta nên cho cá ăn càng nhiều càng tốt. Chậu nuôi cá lớn cũng có tác dụng giảm bớt căng thẳng cho cá.
Bên trong lọ nuôi cá: ngoài môi trường tự nhiên, cá đá sống nơi có nhiều cây cỏ và lá mục. Chúng tận dụng cây thủy sinh và vật trôi nổi để nhả bọt và ẩn dưới các lá cây mục. Sự hiện diện của thực vật thủy sinh bên trong lọ nuôi cá đóng vai trò rất quan trọng trong việc giảm căng thẳng cho chúng. Nó cũng là nơi nghỉ ngơi của cá vào ban đêm. Thực vật thường hút chất bẩn trong nước vì vậy nó làm sạch nước và giúp lấy đi chất bẩn khỏi lọ cá. Không nên thả đá và các vật thể khác vào lọ để tránh làm cá bị t
Bài viết này có 3 mục đích:
Thứ nhất - giới thiệu về cá Xiêm và xem xét chúng dưới khía cạnh cá đá, đồng thời giải thích làm thế nào để người huấn luyện và con cá có thể hợp lực cho một mục đích duy nhất đó là biến một con cá Betta splendens bình thường thành một đấu sĩ thực thụ. Bài viết sẽ hướng dẫn từng bước cách chọn một cá đá tốt và huấn luyện nó thành cá đá tuyển.
Thứ hai - là sổ tay hướng dẫn cho những người mới bắt đầu tham gia trò đá cá. Mục đích là giúp họ biết cách chơi và tránh phạm phải những lỗi thông thường chẳng hạn như trở thành nạn nhân của những trò lừa đảo trong trường đấu.
Thứ ba - chứng minh rằng đá cá thực sự là một trò chơi. Cá đá là kết quả của việc lai tuyển chọn và huấn luyện một cách kỹ càng mà một vài bước nuôi dưỡng và huấn luyện trong đó rất tương đồng với các môn thể thao như bóng đá, đấm box, quần vợt, cầu lông hay bất kỳ các môn thể thao nào khác. Những đấu thủ tham gia thi đấu hoàn toàn phải qua huấn luyện và ở tình trạng thể lực tốt nhất. Hy vọng bài viết này sẽ chứng tỏ cho mọi người thấy rằng cá đá là loại Betta splendens đặc biệt và độc đáo, và không phải loại Betta splendens nào cũng có thể đem đi đá.
Phong trào đá cá bắt nguồn và phát triển ở Thái Lan từ rất lâu. Cá được thuần hóa từ triều đại Sukhothai cách nay khoảng 700 năm. Các văn bản vào thời trị vì của vị vua Lithai thuộc triều đại trên có đề cập đến việc đá cá bên lề các hoạt động thể thao.
Hình vẽ mô tả về một trận đá cá từ quyển sách "Ấn tượng về Thái Lan ở thế kỷ 20" bởi một người phương Tây vào năm 1908.
Hình vẽ mô tả nhóm người tụ tập vì một hoạt động mà cả trăm năm sau người ta cũng dễ dàng đoán ra. Dù bắt đầu từ lúc nào thì phong trào đá cá cũng lan rộng khắp Đông Nam Á và trên toàn thế giới, gồm cả châu Úc, Bắc Mỹ và châu Âu.
Giá trị của trò đá cá
Người ngoài cuộc có thể không hiểu được vì sao người ta lại thích thú với trò đá cá nhưng khi quan sát kỹ lưỡng hoạt động của những người tham gia một cách khách quan và không thành kiến, chúng ta có thể thấy một vài điểm thú vị và hiểu biết tốt hơn về giá trị của nó.
Đá cá phải được thực hiện một cách khoa học và khéo léo. Người chơi phải hiểu rõ và áp dụng các kiến thức về sinh học trong việc nuôi và huấn luyện cá đá. Ngoài ra, người chơi phải sáng tạo và thao tác khéo léo hơn so với đối thủ để chiếm ưu thế trong cuộc đấu. Trong quá trình huấn luyện và trước khi mang cá ra trường đấu, người chơi phải kiểm tra từng đặc điểm của cá một cách chi tiết bao gồm hình dạng, miệng, vảy, da cùng với dáng bơi và kỹ năng đá.
Đá cá là một dạng hoạt động tinh thần đối với người tham gia. Nó cũng là một trò chơi mang lại nhiều cảm xúc, cả niềm vui lẫn nỗi buồn. Dù thắng hay bại thì việc quan sát trận đấu cũng đem lại cho người chơi sự thăng bằng về tinh thần. Họ nói, cười, đùa cợt và chia xẻ quan điểm về cách thức chiến đấu của cá và điều này giúp giảm bớt sự thất vọng khi cá của họ bị thua trận.
Đá cá đòi hỏi sự điềm tĩnh bởi có rất nhiều thách thức và khích bác trong cuộc chơi. Một số người còn nói xấu hay chỉ trích người thắng cuộc. Vì vậy mới có câu "không có ai thực sự là bạn hay thù trong trường đấu". Người tham gia phải biết kiềm chế cảm xúc và suy nghĩ của mình, hãy tự tin vào chính mình, nhất định không để bị lôi kéo vào bất kỳ trò gian lận nào của đối thủ. Một khi bạn tham gia vào trường đá cá thì chính bạn cũng tham gia vào cuộc đấu như cá của bạn vậy.
Đá cá đem lại các mối quan hệ xã hội. Trường đấu là nơi tụ hội mọi người thuộc mọi tầng lớp xã hội, tuổi tác và nghề nghiệp. Mọi người đến để chia xẻ ý kiến, ăn uống và giải trí. Chấp nhận luật chơi và tôn trọng các tập tục truyền thống là điều bắt buộc ở đấy.
Con cá đá phải là hình ảnh tượng trưng cho người có lòng tự trọng và trong sáng - tức là phải thi đấu tận tâm một cách vô điều kiện. Cá không được bỏ chạy ngay cả khi đối thủ của nó lớn hơn rất nhiều. Nó phải chiến đấu cho đến khi không còn sức lực nữa mới thôi. Nó có trách nhiệm phải chiến đấu bằng mọi khả năng có thể mà không viện dẫn đến bất kỳ lý do nào để từ chối, điều mà tiếc thay chúng ta lại ít thấy nơi con người. Một số người thường lẩn tránh hay cân nhắc thiệt hơn khi thực hiện trách nhiệm của mình. Vì vậy, hình ảnh về con cá đá nhắc nhở chúng ta phải biết chịu đựng và kiên nhẫn trong cuộc sống khó nhọc hàng ngày.
Những điều cần cân nhắc khi tham gia đá cá
Sau đây là những điều cơ bản mà chúng ta cần phải cân nhắc được rút tỉa từ kinh nghiệm đá cá nhiều năm trời của tôi. Tôi đã tốn rất nhiều thời gian và công sức kể cả tiền bạc để thử nghiệm và thực hành, nay xin được chia xẻ cùng mọi người:
Đừng đem con cá bị bệnh đi đá. Người chủ phải kiểm tra cá của mình thật cẩn thận. Một con cá bệnh đôi khi không biểu hiện ra bên ngoài. Chúng ta phải kiểm tra kỹ lưỡng xem trên mình cá có các chấm nhỏ li ti hay là lớp màng mỏng bám trên miệng và mặt của cá hay không. Một số người nuôi cá chuyên nghiệp có thể quan sát dáng bơi của cá để phát hiện nó có bệnh hay không. Không có con cá bị bệnh nào lại có thể hy vọng thắng cuộc trong trường đấu.
Đừng đem con cá bị tật hay không hoàn thiện đi đá. Người nuôi phải kiểm tra độ hoàn thiện của cá một cách cẩn thận. Sự hoàn thiện ở đây đối với cá đá có hai ý nghĩa. Thứ nhất là về hình dạng, thứ hai là về trạng thái tâm lý. Độ hoàn thiện về hình dạng có nghĩa tất cả các bộ phận như kỳ, mắt phải ở trạng thái bình thường, miệng và nắp mang phải khép kín hoàn toàn, vảy không bị biến dạng... Theo kinh nghiệm của tôi, một khi cá của bạn biết rõ điểm yếu của cá đối thủ, nó sẽ liên tục tấn công vào đó. Tôi từng thắng một trận nhờ nhận ra một cái vảy bị biến dạng trên mình cá của đối thủ và khai thác điều đó một cách tối đa.
Đừng đem con cá mà bạn chưa từng chứng kiến nó đá như thế nào đi đá các độ lớn. Mặc dù nhà cung cấp tin cẩn có cam đoan rằng con cá mà họ đưa cho bạn có chất lượng hàng đầu thì người đá cá cẩn trọng cũng phải bắt một con trong lứa cá cho đá thử với một con cá khác có chất lượng tương đương. Một số cao thủ thậm chí còn cho cá của mình đá thử với con cá có kích thước lớn hơn (tỷ lệ khoảng 5/4) để biết được tiềm năng và hạn chế của lứa cá đó. Người ta cũng không thể chỉ cho cá đá khoảng 10 phút mà đoán được cách đá - một khi đã thử, phải để cho cá đá đến cùng.
Đừng đem con cá đi đá nếu bạn chỉ dựa vào cơ hội và sự may rủi. Theo kinh nghiệm của tôi, chúng chỉ đến với người đá cá cẩn trọng, người có đủ nhạy bén để nắm bắt cơ hội và chấp nhận rủi ro. Nên nhớ rằng cơ hội không đến từ con cá mà từ người chơi. Người chơi phải luôn luôn tuân thủ luật lệ. Cố gắng vận dụng luật lệ một cách tốt nhất để chiếm lợi thế trong cuộc chơi. Có rất nhiều trường hợp người yếu thế hơn có thể chuyển bại thành thắng đơn giản chỉ vì họ thấy được cơ hội và tận dụng nó. Tuy vậy, sự may mắn thường đến một cách bất ngờ không mong đợi và làm thay đổi kết quả trận đấu.
Đừng đặt quá nhiều sự tin tưởng vào cá của bạn. Tin tưởng cá của mình quá mức sẽ làm cho bạn bị mù quáng và càng sa lầy vào cuộc chơi. Ban đầu cá của bạn có thể đá thật tốt nhưng những đối thủ về sau có thể sẽ làm cho bạn phải trả giá nếu bạn quá tự tin. Trong hầu hết các trường hợp, nhà đá cá chuyên nghiệp sẽ cất con cá từng thắng trận của mình đi.
Đừng đánh giá thấp đối thủ. Bí quyết này được truyền từ người này sang người khác. Khi cân nhắc đối thủ, nhiều người đá cá chỉ cân nhắc đến người chủ cá mà bỏ qua không cân nhắc đến con cá. Đôi khi bạn thậm chí chấp nhận đá với con cá lớn hơn đơn giản chỉ vì nghĩ rằng người chủ của nó không thể huấn luyện cá thành thạo như mình. Bạn có thể chưa biết rằng có nhiều cao thủ để cho người khác đứng tên con cá của họ. Người đó cũng có thể không biết huấn luyện cá nhưng hoàn toàn có thể mua một con cá đã được huấn luyện sẵn để đá với bạn. Vì vậy, chúng ta nên cân nhắc đến con cá đối thủ hơn là người chủ cá. Có nhiều cao thủ quá nổi tiếng nên rất khó để cáp được một độ đá vì vậy họ để những người khác đứng tên thay cho mình.
Đừng đá với con cá lớn hơn cá của bạn. Điều cân nhắc này kết hợp từ hai mệnh đề ở trên. Nếu vì quá tin tưởng ở con cá của mình mà đánh giá thấp cá của đối thủ, bạn có thể chấp nhận cuộc chơi ngay cả khi cá đối thủ lớn hơn rất nhiều. Ngoại trừ con cá đó bị bệnh rất nặng, chấp nhận đá với con cá lớn hơn đồng nghĩa với sự thất bại. Cá của bạn sẽ bị mất nhiều năng lượng trong cuộc đấu và rút cuộc phải bỏ chạy vì đuối sức.
Đừng đá cá với bạn thân vì đá cá là trò chơi có tính chất ganh đua. Tình bạn có thể bị sứt mẻ sau các cuộc đá cá với bạn bè. Tuy nhiên, nếu chỉ cá độ một ít tiền hay đơn giản chỉ thi đấu cho vui thì có thể chấp nhận được. Trong trò đá cá, chúng ta cần phải có những người bạn thật tin cẩn để có thể chia xẻ cá đá, kinh nghiệm và sở thích. Tuy vậy, dù rất khó tìm được tình bạn thực sự nơi trường đấu cá, chúng ta lại rất dễ dàng cảm nhận được ý nghĩa và sự thú vị của trò đá cá.
Đừng đá cá với những cao thủ nếu là đá độ ăn tiền. Hầu hếu những người này đá cá vì tiền và tiền là điều họ muốn khi tham gia đá cá. Do đó, họ nắm vững mọi kỹ năng, phương kế và kể cả khả năng dụ bạn sa vào cuộc chơi nếu bạn không cẩn thận. Dĩ nhiên, chẳng có vấn đề gì nếu bạn là người hâm mộ trò đá cá chỉ để cho vui mà không quan tâm đến việc thắng hay bại.
Cũng đừng đá cá nếu bạn không có thời gian để chăm sóc cá của mình. Cá đá cũng cần sự chăm sóc của người nuôi chẳng hạn như việc huấn luyện, cho ăn, làm vệ sinh và điều chỉnh nhiệt độ thường xuyên. Thiếu một trong những điều này sẽ dẫn đến hậu quả không tốt cho cá của bạn.
Các dạng cá đá và kỹ năng chiến đấu của chúng
Cấu trúc cơ thể có ảnh hưởng trực tiếp đến cách đá của cá. Người nuôi cần hiểu biết càng nhiều về cấu trúc cơ thể và cách đá của cá càng tốt để từ đó có thể lựa chọn đối thủ thích hợp nhất cho cá của mình. Hai yếu tố chính dẫn đến thất bại đó là việc lựa chọn đối thủ một cách thiếu cẩn trọng và thiếu hiểu biết về cấu trúc cơ thể cá.
Dạng thân cá lóc hay bản lóc: cá dạng này có đầu dày và tròn, thân tròn và dài. Hình dạng cơ thể nhìn chung rất vững chãi và ổn định. Khi đọ cá từ mặt bên, dạng bản lóc trông có vẻ nhỏ đi bởi vì chúng có vây ngắn vì vậy chúng ta chỉ nên tính phần thân mà bỏ qua phần vây cá. Cách đá của dạng bản lóc là tấn công trực diện và tấn công liên hoàn. Ở điều kiện phù hợp, dạng này ít khi bỏ chạy ngay cả khi bị thương trầm trọng. Dạng bản lóc thường tấn công trực diện rồi bồi thêm nhiều cú liên tiếp hay nói cách khác chúng áp dụng chiến lược gây tổn thương một cách tối đa cho đối thủ.
Con cá ở trên là minh họa về cá đá dạng bản lóc. Mọi phần cơ thể kể từ miệng đến gốc đuôi đều cân đối. Miệng rắn chắc và được hỗ trợ bởi cặp hàm lớn. Gốc đuôi của nó cho thấy sức mạnh và lực phóng mạnh mẽ.
Dạng thân cá thát lát hay bản thát lát: cá dạng này có thân dẹp và mảnh khảnh. Kỳ cũng như các vây dài hơn những dạng khác. Đặc điểm độc đáo của dạng bản thát lát là miệng dài và cong. Nhìn chung, cấu trúc cơ thể rất cân đối và vững chãi. Người không có kinh nghiệm thường thấy dạng cá này "to lớn" bởi vì chúng có vây dài và bơi lội mau lẹ. Ở điều kiện phù hợp, dạng cá này có răng rất sắc và kỹ năng chiến đấu giỏi. Tuy nhiên, bởi vì thân của chúng nhẹ và mảnh mai cho nên lực cắn không được mạnh cho lắm. Dù vậy, dạng cá này lại tấn công rất mau lẹ, chúng thường tấn công đối thủ đến 4 hay 5 lần liên tiếp một cách chính xác và tập trung vào một điểm, nhờ đó mà tạo được vết thương rất lớn. Tuy vậy, dạng cá này cũng có nhiều nhược điểm. Miệng là một trong những phần yếu nhất. Nó có gờ và dễ dàng bị vỡ sau một vài cú câu mõm. Vây cũng dài và dễ dàng trở thành mục tiêu bị tấn công và điều quan trọng nhất là phần thân của cá mỏng và yếu ớt.
Dạng thân cá rô hay bản rô: điểm đặc trưng của dạng cá này là thân dẹp nhưng lại dày và ngắn với cái cổ dày và do đó có lợi thế hơn các dạng cá khác. Miệng của chúng ngắn nhưng môi lại dày. Khi đọ cá từ mặt bên, dạng cá này trông có vẻ lớn hơn nhưng nếu đọ từ phía trên thì trông lại nhỏ hơn bởi vì thân rất ngắn. Cũng bởi thân ngắn, dạng cá này có thể hơi chậm chạp. Chúng thường phản đòn và hầu như tấn công đối thủ vào vùng mắt, miệng hay hàm, từ đó làm suy giảm sức tấn công của đối thủ. Tuy nhiên, nếu đối thủ đủ nhanh, mạnh và tấn công vào miệng và cổ của chúng thì nó có thể khắc chế được dạng này.
Hình minh họa dạng cá bản rô. Dạng cá này thường có vảy dày và cứng. Bởi cấu trúc cơ thể như vậy, chúng cần được ăn kiêng và ngâm trong nước lá bàng khô để cơ thể mảnh mai hơn và cũng chúng cần được nuôi riêng lâu hơn.
Bên cạnh ba dạng cá chính còn có những dạng cá khác mà hầu hết đều là các dạng cá "kiểng". Chúng được nuôi để ngắm chứ không phải để đá. Dạng thân cá mè hay bản mè là một ví dụ, thân của chúng rất to nhưng đầu lại nhỏ và miệng dài. Đây là dòng cá mới mà chúng ta thường thấy trong các cuộc trưng bày cá cảnh. Chúng có cấu trúc cơ thể hoàn toàn tương phản với dòng cá để đá.
Cấu trúc cơ thể có liên quan trực tiếp đến cách thức chiến đấu. Chẳng hạn dạng thân ngắn như bản rô thường đá chậm nhưng lực rất mạnh. Cái thân ngắn và dẹp làm chúng xoay trở chậm. Vì vậy, cách đá hiệu quả nhất là phản đòn với những miếng cắn thật mạnh gây cho đối thủ những vết thương chí tử. Dạng bản lóc lại tận dụng sự nhanh lẹ để vờn xung quanh đối thủ và thường tấn công vào cổ đối thủ. Vì vậy cơ hội để chiến thắng của dạng thân tròn như bản lóc là tấn công một cách chớp nhoáng. Những cú tấn công liên tiếp sẽ làm vết thương mỗi lần mỗi rộng cho đến khi đối thủ phải bỏ chạy vì đau. Tuy nhiên, những cái vây ngắn của chúng lại không hỗ trợ tốt cho việc tránh đòn. Dạng bản thát lát lại tận dụng những cái vây dài để bơi thật nhanh và tấn công liên tiếp. Nhìn chung, dạng cá này bơi rất nhanh và răng rất sắc bén. Điểm yếu của dạng này nằm ở vùng miệng. Bởi vì miệng chúng cong và mảnh nên dễ dàng bị rách sau đòn câu mõm. Thân dạng cá này thường mảnh nên vết thương cũng dễ lan tới xương. Dạng này có cơ hội thắng lợi nếu chúng tấn công dữ dội và tạo ra nhiều vết thương cho đối thủ trong một giờ đầu tiên. Càng về sau, dạng này sẽ đá chậm dần bởi vì điểm yếu của chúng là không được dai sức. Tóm lại, mỗi dạng cấu trúc cơ thể đều có ưu và nhược điểm riêng. Người đọ cá thông minh sẽ phán đoán dạng cá và cân nhắc thiệt hơn một cách cẩn trọng trước khi bước vào độ cá. Nên nhớ rằng con cá luôn sẵn sàng đá bất kể đối thủ có hình dạng và kích thước ra sao, vì vậy, người chủ phải có trách nhiệm cân nhắc sao cho nó gặp được đối thủ ngang cơ.
Dạng cá đá tốt
Như thế nào là dạng cá đá tốt nhất? Dạng cá đá tốt nhất là dạng tổng hợp của cả ba dạng kể trên. Điều đó có nghĩa con cá tốt nhất phải có thân tròn như bản lóc. Nó cũng phải có cái cổ và thân dày như bản rô và bơi nhanh như bản thát lát. Nhìn chung, cấu trúc cơ thể phải cân đối. Kích thước của đầu và gốc đuôi phải có tỷ lệ thích hợp. Mỗi bộ phận cơ thể không được quá to hay quá nhỏ. Chiều dài phần đầu bằng khoảng 1/3 chiều dài thân vì vậy con cá trông không quá dài hay quá ngắn. Cá quá dài hay quá ngắn làm cho chuyển động của nó mất cân bằng.
Con cá ở trên có hình dạng tổng hợp của cả ba dạng cá đá điển hình với cấu trúc cơ thể cân đối. Nó có vây to, đầu và thân dày với cái miệng của dạng bản lóc. Nó phải to xương có nghĩa vẫn giữ nguyên hình dạng khi được ngâm trong nước lá bàng khô trong vòng một tháng. Tuy nhiên, cá có hình dạng hoàn hảo không có nghĩa là nó chắc chắn sẽ là kẻ chiến thắng trong các cuộc đấu. Nó chỉ đơn giản có nhiều lợi thế hơn để chiến thắng đối thủ mà thôi.
Đánh giá cá
Mục đích của việc đánh giá cá là kiểm tra về mức độ phù hợp của con cá trước khi đem huấn luyện rồi sau đó là đi thi đấu. Có hai bước đánh giá cần được thực hiện: 1-đánh giá về sinh lý để biết được mức độ trưởng thành của con cá và đảm bảo cá không bị khuyết tật. 2-đánh giá về tâm lý để biết được mức độ bạo dạn của con cá.
Đánh giá sinh lý: độ trưởng thành của con cá là điều đầu tiên cần phải cân nhắc đến trước khi đem cá đi huấn luyện. Những bộ phận sau đây của cá cần được lần lượt kiểm tra gồm: Miệng-Nắp mang-Mắt-Kỳ-Vảy-Thịt và Cấu trúc tổng quát toàn thân.
Miệng: được coi là bộ phận quan trọng bậc nhất của cá đá bởi vì nó được dùng như là vũ khí tấn công đối thủ. Nếu miệng có vấn đề thì cá khó thắng trận được. Mỗi khi cá tấn công và làm tổn thương đối thủ thì cũng đồng nghĩa với việc nó tự làm miệng của mình bị thương. Hơn nữa, miệng ăn thông với mũi do đó nếu miệng bị thương nặng thì thường dẫn tới việc cá bị sặc nước và thua trận. Vì vậy mà chúng ta thường thấy cá chỉ giả vờ tấn công rồi sau đó quay về trạng thái phòng thủ. Sau đây là những dạng miệng khiếm khuyết mà chúng ta không nên chọn cá có miệng như vậy để đem đi đá:
Miệng bị biến dạng
Miệng không khép kín
Môi sứt
Miệng khoằm hay vểnh
Miệng phù
Miệng sần sùi
Con cá này có miệng không khép kín, môi trên cũng trề ra và méo mó. Cá có miệng tốt phải khép kín và hơi gồ lên một chút.
Mang và nắp mang: là bộ phận cung cấp không khí để cá thở. Một chức năng quan trọng khác của nắp mang là phùng lên để đe dọa đối thủ. Nó là dấu hiệu để phô trương sức mạnh. Theo luật lệ trường đấu, con cá nào có thể phùng hết mang được xem là có ưu thế hơn hơn dù cho nó bị thương nặng hơn. Do đó, con cá bị thương nhẹ hơn nhưng không thể phùng mang có thể bị xem là thua trận. Nếu mang có vấn đề, con cá không thể chịu đựng được lâu và dễ bỏ chạy. Nắp mang phải nằm gọn gàng và đúng vị trí. Bề mặt nắp mang phải trơn láng. Nó có thể đóng mở dễ dàng và không được vướng víu. Các nếp mang được coi là phần yếu nhất ở con cá và phải được xếp gọn gàng phía dưới nắp mang. Nếu nó bị lòi ra thì có thể bị đối phương cắn đứt. Trong điều kiện bình thường, mang chuyển động phập phùng một cách nhẹ nhàng khi cá thở vì vậy nếu nó chuyển động một cách gấp gáp thì chứng tỏ con cá đó có vấn đề bất thường về hệ thống hô hấp. Không nên đem con cá như vậy đi đá. Sau đây là một số dạng mang bị khiếm khuyết:
Mang bị biến dạng
Mang không khép kín
Mang không thể phùng ra hết cỡ
Nếp mang lòi ra.
Con cá này có nắp mang hở. Điều này đồng nghĩa với việc cho phép đối thủ tấn công vào các nếp mang, phần nhạy cảm nhất của con cá.
Mắt: là bộ phận dẫn đường. Nếu mắt có vấn đề thì cá không thể trông thấy địch thủ một cách rõ ràng. Cá sẽ đá chậm lại ngay lập tức nếu mắt bị thương. Một vài con thậm chí còn bỏ chạy khi mắt bị thương. Mắt cá không được mờ và phải nằm ở vị trí thích hợp. Chúng ta có thể kiểm tra độ nhạy của mắt cá bằng cách di chuyển vật sậm màu như đầu bút chì gần lọ cá. Hầu hết những con cá mạnh khỏe đều trở nên linh động, tiến lại gần đầu bút chì và bắt đầu phùng mang giương vây.
Kỳ: được xem như là chân của con cá. Nó được sử dụng để điều khiển và hỗ trợ cho chuyển động của cá. Vì vậy, nếu con cá có kỳ quá ngắn thì sẽ di chuyển không mau lẹ bằng đối thủ. Kỳ cũng phải nằm đúng vị trí thích hợp. Nó phải chuyển động chắc chắn và mạnh mẽ. Kỳ không được cũn cỡn và phải khép sát vào thân.
Vảy: là áo giáp của cá và được bao phủ bởi lớp nhớt. Có hai loại vảy, loại lớn và loại nhỏ. Cả hai đều có đặc điểm riêng. Loại vảy lớn rất khó tróc nhưng một khi bị tróc rồi thì những vảy bên cạnh cũng dễ bị tróc theo. Loại vảy nhỏ dễ bị tróc hơn nhưng các vảy bên cạnh lại không bị ảnh hưởng nhiều. Dù cho là loại vảy gì thì nó cũng phải được sắp xếp một cách đều đặn. Các vảy phải xếp sát vào nhau và trông gọn gàng. Màu vảy phải càng đậm càng tốt vì điều này cho thấy nhớt cá ở tình trạng tốt.
Thịt: là gốc của vảy và giúp vảy được rắn chắc. Vì vậy, nếu cá có thịt chắc và nhiều cơ bắp thì vảy cũng rất chắc. Cá có thịt chắc sẽ rất khó bị thương hoặc vết thương không lan quá rộng và nhờ đó cá không mất quá nhiều máu. Cơ bắp rắn chắc được kết hợp bởi nhiều yếu tố như di truyền, môi trường nuôi dưỡng, thức ăn, dạng cá, độ tuổi và sự huấn luyện. Cá cùng bầy nhưng được huấn luyện bởi những người chủ khác nhau có thể có chất lượng khác nhau, kể cả về dạng cấu trúc cơ thể. Điều này lý giải tại sao hầu hết những con cá đá bậc nhất đều xuất phát từ các cao thủ huấn luyện cá. Chúng ta không thể thấy một con cá có thịt tốt thế nào nếu như chúng ta không đem chúng đi đá với con khác có cùng đẳng cấp. Thịt tốt có nghĩa vết thương mà nó nhận phải không lan rộng và trở nên trầm trọng hơn khi bị đối thủ cắn lủng lớp vảy. Hơn nữa, nó phải có khả năng phục hồi thật nhanh sau trận đấu.
Cấu trúc tổng quát toàn thân: phải được cân đối. Tất cả các bộ phận bên ngoài phải mạnh mẽ và cân xứng. Thân không được quá dài hay quá ngắn vì có thể làm cho cá bơi chậm và khó xoay trở khi bị đối thủ áp sát.
Đây là một ví dụ về cá có cấu trúc cơ thể không tốt, được biết như là dạng thân cá mè. Cá trông rất lớn bởi vì thân dẹp và nhiều thịt nhưng lại rất yếu ớt. Nó là mục tiêu to lớn dễ bị tấn công. Dạng mặt nhỏ và cong cũng như mõm nhọn là nhược điểm và dễ dàng bị rách chỉ sau một vài cú câu mõm. Cũng dễ nhận thấy dạng đầu này rất dễ bị sặc nước bởi vì xương mặt không được hỗ trợ bởi những xương hàm lớn.
Đánh giá tâm lý: sự ổn định về tâm lý của cá cũng là yếu tố chính trước khi thi đấu. Có nhiều trường hợp con cá tự nhiên bỏ chạy dù nó đang tấn công và làm đối thủ bị thương rất nặng. Vài con cá từng đá rất tốt cũng bỗng dưng bỏ chạy chỉ sau 10 phút. Một vài cao thủ đá cá cố đưa ra lời giải thích cho hiện tượng kỳ lạ này như sau: con cá bị "xuống cấp" bởi vì không được ngâm trong nước lá bàng khô đủ lâu...
Cá đá cần có tâm lý ổn định. Trong trường đấu, có rất nhiều nhiễu loạn ảnh hưởng đến tâm lý thi đấu chẳng hạn như tiếng động bất ngờ và sự di chuyển của mọi người xung quanh. Nếu cá không có tâm lý ổn định, nó sẽ không thể chịu đựng được một cuộc đấu khốc liệt. Nhược điểm này có thể quan sát thấy khi cá có biểu hiện lo lắng hay sợ hãi. Một khi con cá quá căng thẳng, nó sẽ vứt bỏ bản năng chiến đấu và nghiêm trọng hơn là nó mất đi lớp nhớt bảo vệ cơ thể. Một khi lớp chất này mất đi thì sẽ chẳng còn gì để bảo vệ nó khỏi những cái răng sắc bén của đối thủ.
Hiện tượng cá bị nhát có nhiều nguyên nhân. Nó có thể khởi đầu từ môi trường lai tạo, môi trường phòng nuôi hay cách huấn luyện.
Môi trường lai tạo: đôi khi không được yên tĩnh bởi những kẻ thâm nhập và quấy rối. Rắn, bò sát hay chim là những kẻ thâm nhập nguy hiểm nhất và sự quậy phá của chúng có thể làm đổ chai lọ làm cho những con trong các lọ còn lại bị khủng hoảng và trở nên nhút nhát. Vài con sẽ trốn luôn trong góc hay giữa đám rong. Kẻ thâm nhập khó chịu nhất là mèo khi chúng đuổi chuột trên các tấm bạt mà người nuôi dùng để đậy hồ. Âm thanh bất thình lình phát ra từ phía trên có thể làm cá lo lắng và sợ hãi. Bình thường, cá có thể không biểu hiện sự nhút nhát nhưng sẽ bỏ chạy nếu bị tác động tương tự khi đang đá. Tuy nhiên, đa số cá đá có thể vượt qua các tác động nhiễu loạn từ bên ngoài và không hề có biểu hiện nhút nhát.
Nhiễu loạn trong phòng nuôi: đôi khi cá nhút nhát chỉ vì phòng nuôi không được canh chừng cẩn thận. Ví dụ như mèo, chuột rượt đuổi nhau vào ban đêm trong khi cá đá cần được nghỉ ngơi hoàn toàn. Tiếng động phát ra từ những kẻ thâm nhập cũng như chai lọ đổ vỡ có thể làm cho cá sợ hãi từ đó trở nên nhút nhát.
Cách huấn luyện: cá nhát cũng bởi vì người chủ nuôi không đúng cách. Kể từ khi được bắt ra khỏi ao, cá phải tập làm quen với việc thay đổi môi trường nuôi dưỡng một cách liên tục. Trạng thái tâm sinh lý của cá phải thật vững vàng và quen với sự thay đổi. Một số cá không thể chịu được sự thay đổi bất thình lình và bị sốc nếu chúng ta không cẩn thận. Ngay khi được ngâm trong nước lá bàng khô, lọ cá cần phải đem để nơi hơi tối. Người huấn luyện bất ngờ mở nắp và vớt cá bỏ vô lọ nước hoàn toàn mới để ngoài trời. Cá sẽ bị bối rối và sốc với môi trường mới, màu sắc của nó sẽ trở nên nhợt nhạt. Nó mất cả ngày để đáp ứng với môi trường mới. Tuy nhiên, một số cá đá lại phản ứng hoàn toàn trái ngược, chúng thể hiện hết bản năng chiến đấu bằng cách giương vây, phùng mang rồi mổ vào thành lọ mà đôi khi kết thúc với cái miệng bị thương.
Người huấn luyện cần kiểm tra trạng thái tinh thần của cá trong thời kỳ huấn luyện. Kiểm tra trạng thái tinh thần là đánh giá cơ bản để xác định xem có nên đem cá ra trường đấu hay không. Nếu cá có biểu hiện sợ hãi bằng cách thu mình vào một góc khi được đổ vào lọ mới, nó phải được trì hoãn hoặc dừng không đem ra trường đấu. Sau đây là một số dấu hiệu cho thấy cá bị nhát:
- Khi chúng ta lại gần lọ nuôi cá, con cá bơi một cách hốt hoảng hay nhảy lồng lộn lên mặt nước vì sợ hãi.
- Khi chúng ta để cá rượt đuổi cá mái trong một cái chậu lớn, cá không rượt đuổi mà trái lại nép mình vào góc hồ hay trốn vào bụi rong.
- Khi chúng ta đưa một cây viết chì đến gần lọ mà cá lại sợ hãi và bỏ chạy.
Khi bỏ cá vào lọ khác để huấn luyện, chúng ta nên kiểm tra về trạng thái sinh lý cũng như tâm lý của cá. Chúng ta nên quan sát thật kỹ để phát hiện các nhược điểm nếu có. Kiểm tra độ mức độ hung dữ bằng cách đưa đầu bút chì lại gần lọ cá. Nếu cá phản ứng lại bằng cách giương vây, phùng mang thì chứng tỏ nó đã sẵn sàng. Bạn cũng có thể nhận thấy cá có biểu hiện sợ hãi khi bỏ vào môi trường mới và đầu bút chì có thể làm chúng sung trở lại.
Sau đây là các cách phòng chống chứng hoảng loạn ở cá:
- Bố trí phòng nuôi cá để có thể ngăn cản những kẻ quậy phá như mèo, chuột thâm nhập vào và làm náo động.
- Có hai cách đem cá đang dưỡng trong nước lá bàng khô đi huấn luyện; nếu chúng ta làm vào ban ngày để tập cho cá quen với môi trường ánh sáng và âm thanh náo động vào ban ngày thì dùng chậu, đặt trong phòng nuôi cá, mở nắp cho thoáng khí. Sau đó, nhẹ nhàng dùng tay vớt cá đem bỏ vào chậu mới. Nước trong chậu mới được chuẩn bị từ trước đó 2 ngày cùng với rong, một ít lá chuối và lá bàng khô. Nhẹ nhàng nắm cá trong tay, nó sẽ cảm nhận được sự săn sóc của con người. Vì vậy, nó sẽ nhanh chóng đáp ứng với môi trường mới. Những mảnh lá chuối và lá bàng khô làm giảm bớt sự phản xạ ánh sáng trong chậu. Tuy nhiên, nếu không có thời gian thì chúng ta có thể làm vào ban đêm và cho cá ăn toàn bằng thức ăn tươi sống. Bóng tối và thức ăn làm cá bớt căng thẳng. Nó sẽ tự đáp ứng với môi trường mới vào buổi bình minh.
- Trong phòng nuôi cá, chúng ta nên bật radio để nghe nhạc. Âm thanh và nhạc phát ra từ radio làm cho cá quen với tiếng người và sẽ không bị căng thẳng khi được đem đến trường đấu đông đúc và ồn ào.
- Khi vào phòng nuôi cá, chúng ta nên bước nhẹ nhàng chứ không nên chạy ào vào làm cho cá bị hoảng sợ.
Bắt cá nuôi riêng
Có ba công đoạn để biến cá đá thường thành cá đá tuyển, tất cả được thực hiện trong cùng một giai đoạn bao gồm: bắt cá nuôi riêng, cho cá ăn kiêng và làm mình cá săn chắc. Người nuôi nên hoàn tất cả ba công đoạn này trước khi thực hiện các bước huấn luyện kế tiếp.
Bắt cá nuôi riêng: trước khi đem cá đi đá, chúng ta cần phải trải qua giai đoạn chuẩn bị. Bước chuẩn bị này là một trong số những bước chủ yếu trong việc huấn luyện cá đá gọi là bắt cá nuôi riêng. Vậy bắt cá nuôi riêng là gì? Ý tưởng cơ bản của việc bắt cá nuôi riêng là tách chúng ra khỏi đàn. Cá sẽ phát triển từ một con cá bình thường thành một đấu sĩ. Trong tự nhiên, khi cá đực trưởng thành nó sẽ tự tách khỏi bầy và tìm cho mình một lãnh địa riêng để làm tổ và dẫn dụ con cái vào đẻ trứng. Trong giai đoạn này, cá đực sẽ bảo vệ lãnh thổ và đánh đuổi bất kỳ sinh vật nào lảng vảng gần đó. Vì vậy, sự tách bầy khi trưởng thành có liên quan trực tiếp đến mức độ hung dữ của cá. Chúng ta nắm lấy ý tưởng này và áp dụng cho bầy cá nuôi. Điều này có nghĩa là bắt cá đem nuôi ở lọ riêng. Có thể thấy rằng nếu chúng ta nuôi cá ở môi trường thích hợp thì chỉ qua một đêm nó sẽ tự tạo một ổ bằng bọt khí. Ổ bọt là dấu hiệu của sự thành thục, bảo vệ và hiếu chiến ở cá.
Cho cá ăn kiêng: sự khác biệt giữa cá nuôi và cá hoang ở chỗ cá nuôi được nuôi thường xuyên bằng thức ăn tươi giàu chất đạm trong một môi trường giới hạn. Cá bình thường rất mập và lớn con. Quá trình nuôi riêng giúp cá ăn kiêng. Nếu cá quá gầy thì đây là cơ hội để tẩm bổ cho nó. Chúng ta có thể chia cá ra làm 3 loại bằng việc quan sát hình dạng của chúng từ phía trên.
- Cá bình thường: khi các phần đầu, bụng và thân cá có tỷ lệ đều đặn từ lớn đến nhỏ. Tuy nhiên, chúng ta cần phải cảm nhận được hình dạng tối ưu của cá. Dạng bình thường là dạng thích hợp và dễ điều chỉnh nhất. Chúng ta cho cá ăn cung quăng (khoảng từ 8-10 con) hay các loại thức ăn tươi khác như bo bo, trùn chỉ, nhưng chỉ cho ăn một lần mỗi ngày. Quá trình nuôi riêng kéo dài từ 7-10 ngày. Trong quá trình này, chúng ta nên cho cá ăn kiêng cho đến khi chúng hơi gầy. Điều này sẽ làm cá đá nhanh và linh động hơn.
- Cá gầy: khi các phần đầu và bụng cá có tỷ lệ không đều đặn, đặc biệt phần thân cá trông gầy giơ xương. Để làm cho cá mập hơn thì chỉ cần cho chúng ăn nhiều cung quăng hơn và để dư một ít trong chậu. Quá trình nuôi riêng kéo dài từ 5-7 ngày và thức ăn được điều chỉnh tùy vào hình dạng thực tế của chúng.
- Cá mập: khi các phần đầu, bụng và thân cá có tỷ lệ không đều đặn. Cá trông dường như có rất nhiều thịt. Cá cần được nuôi riêng lâu hơn, khoảng từ 10-21 ngày và cho ăn hạn chế. Chúng ta chỉ nên cho cá ăn 8 con cung quăng mỗi ngày nhưng ngày nào cũng phải cho ăn. Nếu cá vẫn mập thì chúng ta phải cho ăn ít đi hay nếu gầy quá thì lại cho ăn nhiều lên.
Hầu hết cá đá đều có hình dạng bình thường hay hơi gầy. Tuy nhiên, bạn nên nhớ rằng điều này không áp dụng đối với mọi dòng cá. Một số dòng cá đá rất tốt nếu hơi mập, một số dòng khác thì phải hơi gầy. Tốt nhất là nên tìm hiểu thông tin về vấn đề này từ nhà lai tạo.
Làm mình cá săn chắc: sự săn chắc của vảy cá phụ thuộc vào độ tuổi, tốc độ lớn và dòng cá. Vì vậy, chúng ta không có cách nào để làm biến đổi một cách thần kỳ từ cá có vảy bình thường thành cá có vảy cứng. Nhưng trong thời gian nuôi riêng, chúng ta có thể ngâm cá bằng một số loại lá khô làm cho nước có màu như màu nước trà nhờ đó mà da thịt và vảy cá được săn chắc. Lá bàng khô được sử dụng rộng rãi nhất nhưng chúng ta cũng có thể sử dụng những loại lá khác với công dụng tương đương. Một số loại lá cây có mùi rất đặc biệt có thể làm cho cá đối phương phải hoảng sợ. Vài loại lá khác lại có tác dụng ngăn cản sự viêm nhiễm và làm lành vết thương.
Sau đây là những loại lá mà chúng ta có thể dùng để ngâm cá:
- Lá chuối khô: nhựa từ cuống lá có thể ức chế sự phát triển của vi khuẩn Escherichia coli, nguyên nhân chính gây ra các bệnh tiêu chảy và kiết lỵ. Chất tannin có nhiều trong lá cũng có khả năng chữa bệnh lỵ.
- Lá bàng khô (Terminalia catappa L.): trước đây thường được dùng để chữa bệnh tiêu chảy ở người. Lá này còn dùng để chữa bệnh nổi mề đay và ngứa ngáy đồng thời có tác dụng làm đổ mồ hôi từ đó giải độc cho cơ thể. Trái bàng ăn vào rất nhuận tràng.
- Casearia grewiifolia[1].
- Vỏ dừa, lá dừa khô (Cocos nucifera Linn.).
- Quả hay vỏ khô của cây muồng hoàng yến (Cassia fistula L.)[2].
- Lá tếch khô (Tectona grandis L.)[3]. Công dụng giống như lá bàng khô.
- Lá cây chiêu liêu hồng, xàng hay tiếu (Terminalia chebula)[4].
- Vỏ trái keo cau khô (Acacia catechu)[5]. Có chứa nhiều chất tannin dùng để chữa bệnh tiêu chảy và kiết lỵ.
- Các loại lá khác.
Thông thường, trong tuần nuôi riêng đầu tiên, chúng ta bỏ lá khô làm cho nước có màu như màu nước trà. Trong tuần thứ hai, chúng ta giảm nồng độ bằng cách lấy bớt phân nửa nước cùng với chất thải cá rồi thêm nước mới vào. Lá cây làm cho nước hơi có tính acid, khoảng 6.5 độ pH. Nồng độ pH như vậy hạn chế sự tăng trưởng của vi khuẩn trong nước và hỗ trợ cho chất nhớt của cá. Những chất tiết ra từ lá ngấm vào cá và làm cơ bắp của nó săn chắc. Vào ngày thứ 8, chúng ta đem cá bỏ vào lọ khác. Chúng ta có thể thấy rằng cá trông có vẻ nhỏ và mảnh khảnh hơn so với ngày đầu tiên mới thả. Cá trông linh động hơn, bơi nhanh hơn và trở nên dạn dĩ hơn trước con người. Đồng thời, cá cũng trở nên rất hung dữ và sậm màu chỉ trong một thời gian ngắn.
Xây dựng môi trường huấn luyện và điều trị bệnh
Cá đá là một trong số những loài nhạy cảm nhất trong số các loài sinh vật máu lạnh. Khi nhiệt độ môi trường thay đổi, trạng thái sinh lý của chúng cũng bị ảnh hưởng từ đó tác động trực tiếp lên năng lực chiến đấu và cảm nhận của cá. Việc xây dựng một môi trường huấn luyện thích hợp là điều nên được cân nhắc một cách nghiêm túc bằng không cá có thể bị căng thẳng dẫn đến dễ bị ngã bệnh rồi lây sang những con cá khác cùng phòng. Chẳng hạn phòng quá nóng hay quá lạnh, nhiệt độ trong phòng thay đổi quá nhiều giữa ngày và đêm sẽ làm cá bị suy nhược. Theo kinh nghiệm của tôi, nhiều người đá thua bởi vì không bố trí phòng huấn luyện một cách thích hợp. Nếu được bố trí thích hợp, phòng nuôi cá có thể giúp cá mạnh khỏe hơn và cải thiện kỹ năng chiến đấu của cá. Ý tưởng chung về một phòng nuôi cá đó là nó phải thoáng khí và có ánh sáng tự nhiên chiếu vào cả ban ngày lẫn ban đêm. Nên có luồng gió nhẹ lưu thông trong phòng. Nhiệt độ phòng không được thay đổi quá đột ngột vì nó làm cá bị suy nhược. Các lỗi liên quan đến việc bố trí phòng nuôi cá gồm: phòng kín hay thiếu luồng khí luân chuyển. Nhiệt độ trong phòng quá nóng hoặc quá lạnh tức là biến thiên quá 3 độ C. Phòng nuôi cá cần phải có những dụng cụ cần thiết và được đặt đúng nơi quy định.
Xây dựng môi trường huấn luyện: là việc quản lý phòng nuôi cá và nhân tố chính đem lại chiến thắng tại trường đá cá. Sau đây là những vấn đề liên quan đến phòng nuôi cá gồm: môi trường, dụng cụ và thuốc điều trị.
Vị trí: hồ cá phải được bố trí nơi thật thoáng khí, có ánh nắng chiếu vào buổi sáng và bóng râm vào buổi chiều. Để giảm tiếng ồn vào ban ngày và ánh sáng vào ban đêm, phòng nuôi cá phải xa phòng sinh hoạt của người. Phòng cũng nên được đóng kín để tránh chó, mèo, chuột hay rắn thâm nhập. Cũng cần tránh các yếu tố gây nhiễu như tiếng ồn, sự rung động hay chớp sáng. Nhưng phòng cũng không nên quá xa nơi ở để chúng ta có thể đến đó vào bất kỳ lúc nào mà chăm sóc cá. Tôi thường đến phòng nuôi cá cứ cách mỗi 2 giờ vào ban ngày nếu tôi không có việc gì bận.
Không gian và thiết kế của phòng nuôi cá: thật khó mà đưa ra một tiêu chuẩn cụ thể về phòng nuôi cá. Không gian thay đổi tùy vào số lượng cá hay không gian hiện hữu mà bạn có. Ý tưởng chung về phòng nuôi cá là nó phải thoáng khí và có ánh sáng tự nhiên chiếu vào. Phòng nên được chia làm 2 phần, phần nuôi cá và phần để làm việc (một số người còn thích qua đêm ngay tại phòng nuôi cá). Phần nuôi cá nên chia làm 3 gồm 1-cá đã huấn luyện và chuẩn bị để đem đi đá, 2-nơi để các lọ huấn luyện cá, 3-nơi nuôi cá sắp được huấn luyện (thường là cá đang được ngâm trong lá bàng khô). Để thuận tiện cho công việc, chúng ta nên đóng các kệ để đặt hồ cá và chai lọ để vừa tiết kiệm không gian vừa dễ thao tác.
Sàn: loại sàn và môi trường xung quanh phòng nuôi cá đóng vai trò rất quan trọng trong việc duy trì nhiệt độ được ổn định. Loại sàn lý tưởng được làm bằng gỗ bên trên hồ nước hay mặt đất. Nước và đất thẩm thấu nhiệt độ và độ ẩm và giữ cho chúng được ổn định. Không nên để nhiệt độ phòng nuôi cá thay đổi đột ngột. Tuy nhiên, nên nhớ rằng nhiệt độ trong phòng nuôi cá nên được duy trì ở khoảng từ 28-30 độ C với độ ẩm nhất định. Nên tránh sử dụng sàn bê tông vì xi măng giữ nhiệt và tỏa ra rất chậm làm cho phòng nuôi cá lúc nào cũng nóng nực. Phòng nuôi cá kín mà lại thiếu một hệ thống thông thoáng khí là môi trường không tốt cho cá. Quan trọng hơn cả là nhiệt độ phòng nên từ 28-30 độ C vào ban ngày. Sự biến đổi nhiệt độ nhỏ sẽ không làm cá bị suy nhược. Nơi tốt nhất để xây dựng phòng nuôi cá là bên dưới một gốc cây lớn để tận dụng bóng mát tự nhiên và cây cối xung quanh. Nền tốt nhất là nền đất tự nhiên vì nó luôn làm nhiệt độ phòng ổn định và mát mẻ.
Mái che: nên được làm từ các loại vật liệu cách nhiệt và không giữ nhiệt để có thể tỏa nhiệt một cách nhanh chóng. Vì vậy, mái che không nên được lợp quá thấp bởi như vậy thì nhiệt độ bên ngoài sẽ tác động nhiều hơn vì vậy mà nên lợp mái che cao. Vị trí thích hợp của mái che tùy thuộc và từng địa điểm. Để kiểm tra, bạn có thể vào phòng nuôi cá vào lúc 2 giờ trưa mà thấy vẫn mát mẻ là được. Nhưng nếu bạn cảm thấy nóng nực và khó chịu điều đó có nghĩa là cá của bạn sẽ cảm thấy tệ hơn vậy rất nhiều. Vật liệu để lợp mái có thể làm bằng lá dừa hay cỏ tranh. Tấm lợp xi măng cũng tốt nhưng nên được bố trí cao hơn, khoảng 3 mét kể từ sàn và tốt nhất nên có cây cỏ mọc trên mái.
Đây là ví dụ về một phòng nuôi cá không tốt. Mái được lợp bằng tấm lợp xi măng nhưng lại để khá thấp, chiều cao chỉ có 2.5 mét. Không có cây lớn để hạn chế ánh nắng làm cho phòng nuôi cá luôn nóng nực. Lưới nhựa để hạn chế ănh nắng chỉ có tác dụng đến gần trưa nhưng lại ngăn cản sự lưu thông của không khí và làm cho phòng nuôi cá tối tăm.
Phòng nuôi cá này lại hẹp và chật chội. Có thể đoán rằng người chủ không thể ở trong phòng thường xuyên. Ban ngày mà bật đèn là không cần thiết.
Có thể thấy các tấm chăn ẩm đắp bên trên và bên dưới các lọ cá cùng với sàn xi măng được vẩy nước. Tất cả là để giảm nhiệt độ trong phòng. Nhưng như vậy thì quá mất công nên cũng coi như là thiết kế không tốt.
Mái được lợp bằng tấm lợp xi măng. Nó giữ nhiệt rất lâu nên sẽ làm phòng nuôi cá nóng nực. Người chủ cải thiện bằng cách lợp thêm một lớp lá dừa để cách nhiệt.
Còn đây là một phòng nuôi cá lý tưởng. Sàn nhà được lát bằng gạch màu. Mái lợp bằng lá dừa dưới tán cây mát mẻ. Bên dưới là một hồ lớn tạo hơi nước ẩm ướt.
Quan sát kỹ bên trong phòng này. Sàn nhà là nơi giải trí cho một nhóm người đến ăn uống và đánh bài. Trong môi trường như vậy, cá sẽ quen với sự hiện diện của con người.
Một dãy lọ được xếp trong một góc thích hợp với các tấm che bằng nhựa để che nắng nhưng vẫn đủ ánh sáng. Phòng nuôi cá này được bố trí lộ thiên nên không có vấn đề về mặt thông thoáng.
Dụng cụ: trong các phòng khác bạn có thể chỉ cần một đến hai cái vợt để bắt cá nhưng trong phòng huấn luyện, bạn cần hàng loạt vợt và các loại bình lọ để đựng cá. Sau đây là những dụng cụ quan trọng dùng trong phòng nuôi cá.
- Muỗng: dùng để vớt cá từ lọ này sang lọ khác. Nó phải tròn và không có cạnh sắc để tránh làm tổn thương cá khi bắt và thả.
- Vợt nhỏ: để bắt cá mái khỏi chậu. Lưới phải mềm để tránh làm cá bị thương.
- Chậu nhựa: để thay nước. Chậu nên có thể tích chuẩn để dễ định lượng khi thay nước.
- Cá mồi: để cho cá ăn.
- Phấn viết bảng: để ghi chú các chi tiết liên quan đến cá.
- Kiếng lúp: để kiểm tra khuyết tật ở cá.
- Ống nhựa: để thay nước và làm vệ sinh lọ cá.
- Máy sục khí: để nuôi trùn chỉ.
- Chậu huấn luyện cá: có kích thước khoảng 50 lít. Nhiều nhà đá cá chuyên nghiệp sử dụng lọ hình tròn để huấn luyện cá bởi vì nó không có cạnh làm cá bị thương và cá mái bơi nhanh hơn.
- Tấm chắn: nên có màu xám và không được bóng vì nó có thể phản chiếu hình ảnh làm cho cá tưởng rằng có con cá ở phía đối diện mà tấn công vào kiếng làm hư miệng.
Thuốc điều trị: cá đá là một trong những loài mạnh mẽ nhất trong hồ cảnh vì vậy phòng nuôi cá chỉ cần trữ những loại thuốc thông thường. Tuy nhiên, luôn nhớ rằng "phòng bệnh hơn chữa bệnh" là nguyên tắc quan trọng của mọi phòng nuôi cá. Không giống như Betta splendens cảnh, cá đá một khi mắc bệnh dù là bệnh rất thông thường như bệnh nấm, người huấn luyện sẽ liệt nó vào loại cá bình thường. Người huấn luyện sẽ phải ngâm cá vào lá bàng khô trong giai đoạn nuôi riêng để phòng bệnh. Hầu hết các cao thủ đều điều trị cá bằng các loại dược liệu tự nhiên để tránh tác dụng phụ của chất hóa học. Vì thế, hầu hết dược liệu sử dụng trong phòng huấn luyện cá đều đơn giản và có tác dụng phòng bệnh là chính, chúng gồm:
- Dung dịch Acriflavine 0.1%: dùng để ngâm cá vừa thi đấu xong với liều lượng khoảng 2 giọt/ 50 cc như hướng dẫn. Nó cũng dùng để phòng bệnh nhất là đối với cá cái sử dụng để huấn luyện và thường bị cá đực cắn bị thương.
- Methylene blue: có tác dụng chống nấm và vi khuẩn.
- Dung dịch đa sinh tố: sử dụng một giọt/ một lít như hướng dẫn. Sinh tố rất cần thiết cho cá trong giai đoạn huấn luyện, cá sẽ tiêu thụ rất nhiều sinh tố và chất khoáng để tăng cường cơ bắp và duy trì thể trạng.
- Muối: hiệu quả sử dụng chưa rõ ràng. Người ta dùng muối để làm mềm nước và tăng cường chất khoáng.
- Lá bàng khô (Terminalia catappa) hay các loại dược thảo khác: đóng vai trò rất quan trọng trong lãnh vực nuôi cá đá. Nó được sử dụng để kháng viêm, phục hồi sinh lực và chữa lành các vết thương của cá. Nó cũng chữa trị chứng sưng mắt một cách hiệu quả nhưng phải dùng với liều lượng cao làm nước có màu nâu sậm. Chỉ cần sau từ 3-5 ngày là mắt cá sẽ trở lại bình thường. Trong chậu cho cá đẻ, nó làm cho nước có độ acid khoảng 6 độ pH hoặc hơn. Thực tế cho thấy trong điều kiện như vậy tỷ lệ cá đực trong bầy tăng lên rất nhiều.
- Lá chuối khô: có công dụng tương tự như lá bàng khô nhưng tác dụng yếu hơn mặc dù nó cũng rất tốt để chữa trị chứng sưng mắt. Mục đích chính của việc sử dụng lá chuối khô là để làm mềm nước, điều kiện phù hợp cho cá đá. Người huấn luyện tước lá thành những mảnh dài để cá có thể trú ẩn một cách dễ dàng trong lọ nuôi.
- Đất sét: sử dụng đất sét phơi khô để làm mềm nước và tăng cường sinh lực cho những con cá sống trong lọ quá lâu ngày. Nó cũng rất tốt vào mùa đông vì đất sét bám vào người cá giống như tấm chăn mỏng giúp cá chống lạnh. Nhà lai tạo cũng cho đất sét vào hồ đẻ để cung cấp các vi sinh vật làm thức ăn cho cá con được vài tuần tuổi.
- Các loại dược thảo khác.
Các bệnh liên quan đến cá đá:
Căng thẳng là một trong những bệnh chính của cá đá. Căng thẳng xuất phát từ những sự thay đổi thất thường của thời tiết và việc điều hành phòng nuôi kém. Nên nhớ rằng chúng ta không nên huấn luyện hay đem cá đi đá một khi nó chưa lành bệnh. Khi huấn luyện, bệnh có thể lây qua những con cá được thả chung hồ khác. Sau đây là những nguyên nhân gây bệnh chính ở cá đá:
Thời tiết thất thường: các bệnh liên quan gồm bệnh đốm trắng và bệnh nấm.
Huấn luyện quá nặng: bệnh xuất hiện sau thời kỳ huấn luyện quá độ. Bệnh nấm Saprolegnia phát sinh và thâm nhập vào những vết thương trong khi huấn luyện, thường là ở mắt và miệng.
Thay đổi môi trường quá nhiều: có nghĩa là thay đổi vị trí quá nhiều dù là ngay trong một phòng nuôi cá. Cá có thể bị căng thẳng khi được thả vào môi trường mới chẳng hạn như nước mới, lọ mới... Một khi cá cảm thấy căng thẳng, hệ thống miễn nhiễm của nó bị suy giảm và cá dễ bị nhiễm bệnh.
Cá mái sử dụng để huấn luyện: là một trong những nguyên nhân gây bệnh chính. Cá đực đuổi và cắn cá mái làm nó bị thương và dễ nhiễm bệnh. Khi đem cá mái về hồ nuôi chung, nó có thể truyền bệnh hay nhiễm bệnh từ những con cá mái khác từ đó bệnh lan truyền toàn bộ phòng nuôi cá.
Các vật thể thả trong lọ: như là lá bàng khô hay rong có thể là trung gian truyền bệnh. Chúng phải được rửa sạch bằng nước máy trước khi bỏ vào lọ. Lá bàng nên được phơi nắng cho đến khi khô hẳn. Rong nên giữ yên ở một lọ trong một hai tuần trước khi bị bỏ đi vì mục. Lá mục là nguồn nuôi dưỡng và phát sinh các vi khuẩn gây bệnh. Vợt và muỗng cũng là nguồn lây bệnh và nên được phơi khô mỗi tuần một lần.
Bệnh cá là một trong những nguyên nhân chính làm cá đá thua, làm điêu đứng các phòng nuôi và trại cá. Một khi cá bị bệnh, nó sẽ bị yếu đi và không bao giờ hồi phục lại được như cũ. Và bạn cũng phải luôn nhớ là không bao giờ được đem con cá đang bị bệnh (hoặc đã từng bị bệnh) ra ngoài trường đá.
Lọ nuôi cá
Cá đá là loài xác định lãnh thổ và lọ nuôi chính là lãnh thổ đó với cái tổ bằng bọt khí ở trung tâm. Tổ bằng bọt khí là dấu hiệu cho thấy sự hung dữ của cá. Một con cá khỏe mạnh có thể tạo ra một tổ bằng bọt khí (sau khi đã lựa chọn địa điểm thích hợp) trong một, hai ngày sau khi được thả vào nơi ở mới. Vì vậy, việc bố trí lọ nuôi cá một cách thích hợp đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tăng cường khả năng chiến đấu của cá. Người huấn luyện phải cung cấp môi trường sống thích hợp để cá được thoải mái và không bị căng thẳng hay sợ hãi.
Nơi đặt lọ nuôi cá: bên cạnh tầm quan trọng của việc bố trí phòng nuôi cá như đã thảo luận ở trên, việc sắp đặt lọ nuôi cá cũng quan trọng tương đương. Lọ nuôi cá nên được đặt trên kệ ở ngang tầm mắt tùy thuộc vào việc bạn thích đứng hay ngồi để quan sát cá của mình. Tôi khuyên là nên bố trí ở tư thế ngồi như vậy bạn có thể quan sát cá được thoải mái và lâu hơn nhờ thế mà bạn có thể phát hiện được một số chi tiết tốt hoặc xấu ở cá của mình. Điều này cần thiết cho việc huấn luyện cá sau này. Tôi thường dùng cách này để quyết định xem con cá nào được đem đi đá hay giữ lại cho dù theo kế hoạch cả hai đều có thể mang đi đấu. Một số người kê bàn cao lên cả gang tay và sử tấm ngăn chia bàn ra làm 2 phần. Với cách này họ có thể quan sát cá từ hai phía bởi vì các lọ cá được kê ngang tầm mắt. Họ cũng thích ngồi từ bàn làm việc để quan sát cá. Đây là phương cách chuyên nghiệp để đánh giá cá. Số lượng lọ nuôi nên là số chẵn vì vậy mỗi con cá sẽ đối diện với một con khác khi tấm ngăn được lấy đi. Người nuôi nên che nắp lọ bằng chăn hay vải cotton. Nếu nhiệt độ trên 28 độ C thì chăn nên được tẩm ướt để giữ nhiệt độ lọ nuôi được ổn định. Nó cũng nên đủ lớn để có thể che kín mặt trước của lọ vào ban đêm (mặt kia đối diện tấm ngăn). Cách này chống được đèn chớp hay vật lạ thâm nhập và quấy rối phòng nuôi cá vào ban đêm và đảm bảo cá có thể được nghỉ ngơi hoàn toàn. Lọ cá nên được làm vệ sinh định kỳ để phòng bệnh và mặt bên phải thật sạch để cá dễ thấy đối thủ bên lọ đối diện.
Sự thay đổi về thời tiết và nhiệt độ dường như là nguyên nhân chính làm cá bệnh và giảm phong độ. Sự thay đổi nhiệt độ ở lọ cá có hai nguyên nhân, thứ nhất là cấu trúc của phòng nuôi cá (như thảo luận ở trên), thứ hai là sự thay đổi của thời tiết. Dù là nguyên nhân nào thì người huấn luyện phải có khả năng điều chỉnh nhiệt độ và cung cấp một môi trường thích hợp cho cá.
Các loại lọ nuôi cá: có hai loại lọ nuôi cá mà người huấn luyện thường sử dụng trong giai đoạn huấn luyện. Loại thứ nhất có đường kính khoảng 25 cm, cao khoảng 30 cm, hình tròn và chứa từ 10-15 lít nước. Loại lọ này được sử dụng trong tuần huấn luyện đầu tiên. Loại lọ thứ hai là loại dành cho các cuộc đấu cá. Ở Thái Lan, loại lọ truyền thống dùng để đá cá chứa khoảng 2 lít nước.
Loại và kích thước lọ liên quan trực tiếp đến hoạt động huấn luyện. Chúng ta sẽ đi sâu về vấn đề này trong phần huấn luyện.
Lọ cỡ nhỏ cũng cần thiết vào mùa đông hay khi nhiệt độ phòng xuống dưới 25 độ C. Cá đá không thích hợp với nhiệt độ dưới 28 độ C vì vậy loại lọ nhỏ dễ điều chỉnh nhiệt độ hơn. Nhiệt độ thấp làm cá lờ đờ và biếng ăn. Lọ nuôi cỡ nhỏ cũng kích thích tính hung dữ ở cá bởi vì cá luôn cạnh tranh lãnh thổ với nhau.
Chậu nuôi cá lớn thích hợp trong mùa nắng khi nhiệt độ phòng trên 28 độ C. Ở nhiệt độ cao, vi khuẩn hoạt động mạnh hơn trong khi cá lại dễ bị căng thẳng và nhiễm bệnh. Cá cũng bị sụt giảm trọng lượng nhanh hơn vì vậy chúng ta nên cho cá ăn càng nhiều càng tốt. Chậu nuôi cá lớn cũng có tác dụng giảm bớt căng thẳng cho cá.
Bên trong lọ nuôi cá: ngoài môi trường tự nhiên, cá đá sống nơi có nhiều cây cỏ và lá mục. Chúng tận dụng cây thủy sinh và vật trôi nổi để nhả bọt và ẩn dưới các lá cây mục. Sự hiện diện của thực vật thủy sinh bên trong lọ nuôi cá đóng vai trò rất quan trọng trong việc giảm căng thẳng cho chúng. Nó cũng là nơi nghỉ ngơi của cá vào ban đêm. Thực vật thường hút chất bẩn trong nước vì vậy nó làm sạch nước và giúp lấy đi chất bẩn khỏi lọ cá. Không nên thả đá và các vật thể khác vào lọ để tránh làm cá bị t